hợp đồng hứa thưởng
VOV.VN - Sáng 14/10, Sở Xây dựng Hà Nội phối hợp với các cơ quan chuyên môn thuộc Bộ Xây dựng, Hiệp hội các nhà thầu xây dựng Việt Nam tổ chức Hội nghị tập huấn "Hướng dẫn một số nội dung về Quản lý chi phi đầu tư xây dựng và điều chỉnh hợp đồng xây dựng
Trao đổi với Tuổi Trẻ ngày 16-12-2010, ông Phạm Doãn Hiếu - chánh án TAND Q.Bình Thạnh - cho rằng do đây là hợp đồng "hứa mua hứa bán", chưa phải hợp đồng chính thức mua bán căn hộ nên quan điểm giữa các thẩm phán có khác nhau. Ngay bản thân ông cũng cảm thấy băn
Trả thưởng 1. Trường hợp một công việc được hứa thưởng do một người thực hiện thì khi công việc hoàn thành, người thực hiện công việc đó được nhận thưởng. 2. Khi một công việc được hứa thưởng do nhiều người cùng thực hiện nhưng mỗi người thực hiện độc lập với nhau thì người hoàn thành đầu tiên được nhận thưởng. 3.
17/10/2020 / hợp đồng, Hợp đồng ước hẹn/hứa thưởng, ước hẹn/hứa thưởng. Hợp đồng ước hẹn/hứa thưởng có thể được hiểu là sự thỏa thuận của các bên, theo đó, bên ước hẹn/hứa thưởng sẽ trả thưởng/tặng cho bên thực hiện được công việc một tài sản
Anthony Martial - 1 trong 2 bản hợp đồng của Van Gaal vẫn còn ở lại Man United. Sau một mùa giải ra mắt ấn tượng, ghi 18 bàn và có 11 pha kiến tạo, cầu thủ người Pháp đã thi đấu thất thường trước khi gây ấn tượng ở Thái Lan và Australia hè này, nhưng anh mới xuất hiện 1
Jean Claude Van Damme Dating History. Mẫu hợp đồng hứa thưởng? Hứa thưởng là một trong những chế định pháp lý được pháp luật dân sự quy định và điều chỉnh, thể hiện hành vi pháp lý đơn phương của một bên chủ thể. Do vậy, bài viết này của Luật Hùng Sơn sẽ giới thiệu cho các bạn mẫu hợp đồng hứa thưởng mới nhất. Hợp đồng hứa thưởng là gì? Giao dịch dân sự là hành vi pháp lí đa phương hoặc đơn phương của chủ thể nhằm đạt đến một hậu quả pháp lí nhất định cụ thể. Hứa thưởng chính là hành vi pháp lí đơn phương của một bên chủ thể đưa ra những điều kiện cụ thể nhất định, điều kiện này phải rõ ràng, rành mạch không bị quy định pháp luật cấm và không được trái đạo đức xã hội. Đối tượng của việc hứa thưởng sẽ là một công việc như tìm kiếm một tài sản hay hoàn thành một công việc cụ thể nào đó,.. Khi chủ thể thứ hai đã thực hiện được công việc mà người hứa thưởng nêu ra, họ sẽ có quyền yêu cầu người hứa thưởng kia phải trả thưởng như họ đã tuyên bố. Việc trả thưởng sẽ phải được tuyên bố cụ thể như đó là một số tiền, một số đồ vật là tài sản hoặc người hứa thưởng phải làm cho bên kia một công việc nhất định nào đó. Như vậy, hứa thưởng sẽ là cam kết của một bên về việc thực hiện nghĩa vụ trả thưởng nếu một bên khác đã thực hiện được những điều kiện do bên hứa thưởng đã đưa ra. Những điều kiện này sẽ không trái quy định pháp luật và đạo đức xã hội theo quy định tại ĐIều 570 Bộ luật dân sự năm 2015. Quy định pháp luật về nội dung của hứa thưởng Bên hứa thưởng Là cá nhân hoặc pháp nhân cụ thể có đầy đủ về năng lực hành vi dân sự, có nghĩa vụ phải tiếp nhận kết quả công việc mà người khác đã thực hiện xong, đúng với các điều kiện mà bên hứa thưởng đã được đưa ra. Bên hứa thưởng sẽ có quyền rút lại tuyên bố hứa thưởng nếu chưa đến thời hạn bắt đầu thực hiện công việc. Trường hợp này bên hứa thưởng sẽ phải tuyên bố về thời hạn để bắt đầu thực hiện công việc. Nếu tuyên bố hứa thưởng không quy định về thời hạn để bắt đầu thực hiện công việc thì việc tuyên bố đó có hiệu lực kể từ khi tuyên bố đó được công khai. Việc rút lại tuyên bố hứa thưởng sẽ phải được thực hiện theo cách thức và trên phương tiện mà việc hứa thưởng đã được công bố trước đó. Bên hứa thưởng có thể tuyên bố về thời gian bắt đầu và thời gian để kết thúc thực hiện công việc. Trong khoảng thời gian đó, bên hứa thưởng sẽ phải thực hiện các cam kết của mình nếu người khác đã thực hiện xong những điều kiện đã hứa thưởng. Hết thời gian đó, bên hứa thưởng không buộc phải trả thưởng cho người đã thực hiện công việc do không đúng thời hạn đã quy định. Bên được trả thưởng Là người đã hoàn thành nội dung công việc mà bên hứa thưởng đã tuyên bố. Sau khi thực hiện xong công việc sẽ phải thực hiện việc bàn giao lại cho bên hứa thưởng và nhận phần thưởng do bên trả thưởng trả đã đưa ra ban đầu. Rút lại tuyên bố hứa thưởng Khi chưa đến hạn để bắt đầu thực hiện công việc thì người hứa thưởng vẫn có quyền rút lại tuyên bố hứa thưởng của mình trước đó. Việc rút lại tuyên bố hứa thưởng sẽ phải được thực hiện theo cách thức và trên phương tiện mà việc hứa thưởng đã được công bố. Quy định trên nhằm đảm bảo quyền tự do giao kết hợp đồng giữa các bên tham gia, bên hứa thưởng có thể rút lại việc tuyên bố hứa thưởng của mình. Việc rút lại tuyên bố hứa thưởng sẽ chỉ được chấp nhận khi – Rút lại tuyên bố hứa thưởng thực hiện công việc khi chưa đến hạn bắt đầu thực hiện công việc đó. Khi không có quy định về thời hạn để bắt đầu thực hiện công việc, thì việc rút lại tuyên bố hứa thưởng sẽ phải được thực hiện trước khi bên được nhận thưởng bắt đầu thực hiện các công việc, – Việc rút lại tuyên bố hứa thưởng sẽ phải được thực hiện theo cách thức và phương tiện mà việc hứa thưởng đã được công bố trước đó. Nếu vi phạm quy định này thì việc rút lại tuyên bố hứa thưởng sẽ không có hiệu lực pháp luật và bên hứa thưởng vẫn sẽ phải thực hiện nghĩa vụ trả thưởng hoặc bồi thường thiệt hại với bên kia. Trả thưởng – Trường hợp một công việc được hứa thưởng do một người thực hiện thì khi công việc đó được hoàn thành, người thực hiện công việc đó sẽ được nhận thưởng. – Khi một công việc được hứa thưởng do nhiều người cùng nhau để thực hiện nhưng mỗi người thực hiện sẽ độc lập với nhau thì người hoàn thành đầu tiên sẽ được nhận thưởng. – Trường hợp nhiều người cùng hoàn thành một công việc đã được hứa thưởng vào cùng một thời điểm thì phần thưởng sẽ được chia đều cho những người đã hoàn thành đó. Trường hợp này họ sẽ thực hiện một loại công việc giống nhau, với thời gian giao kết quả công việc là trùng nhau và chỉ có một phần thưởng duy nhất sau khi hoàn thành. Cũng có thể cùng một loại công việc nhưng có nhiều phần thưởng khác nhau, người nào hoàn thành công việc đó đúng so với thời hạn sẽ được nhận một phần thưởng riêng. Điều này sẽ phụ thuộc vào việc tuyên bố trả thưởng. – Trường hợp nhiều người cùng cộng tác để thực hiện một công việc được hứa thưởng do người hứa thưởng yêu cầu thì mỗi người sẽ được nhận một phần của phần thưởng tương ứng với phần họ đã đóng góp của mình. Mẫu hợp đồng hứa thưởng mới nhất Luật Hùng Sơn xin giới thiệu mẫu hợp đồng hứa thưởng mới nhất theo quy định pháp luật CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc HỢP ĐỒNG HỨA THƯỞNG Số ………/……/HĐHT Hôm nay, ngày …… tháng …… năm 20…. tại……………… – Địa chỉ ………………, chúng tôi gồm BÊN HỨA THƯỞNG Họ và tên……………………………….. CMND/CCCD/Hộ chiếu số ……………..do……………..cấp ngày ………………. Địa chỉ thường trú …………………………………………………………… Số điện thoại liên lạc……………… Sau đây gọi là “Bên A”. BÊN ĐƯỢC HỨA THƯỞNG Họ và tên……………………………….. CMND/CCCD/Hộ chiếu số ……………..do……………..cấp ngày ………………. Địa chỉ thường trú …………………………………………………………… Số điện thoại liên lạc……………… Sau đây gọi là “Bên B”. Bằng hợp đồng này, Bên A và Bên B trên đây đã thỏa thuận và cam kết thực hiện đúng đầy đủ theo những điều khoản đã được hai bên thống nhất cụ thể như sau Điều 1 NỘI DUNG HỨA THƯỞNG Bên A và Bên B thống nhất rằng Bên B sẽ tìm kiếm, giới thiệu và làm trung gian để Bên A chuyển nhượng số tiền ngoại tệ …… USD – Bằng chữ…. của Bên A đang sở hữu và lưu giữ tại …… Các Bên thống nhất rằng, sau khi khi Bên B giới thiệu cho bên thứ ba mua một phần hoặc toàn bộ số tiền ngoại tệ trên đây, Bên A sẽ trích thưởng cho Bên B theo nội dung thỏa thuận tại Hợp đồng này ngay sau khi Bên A ký hợp đồng chuyển nhượng với bên thứ ba do Bên B giới thiệu mà không phụ thuộc vào kết quả của việc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng của Bên A và bên thứ ba do Bên B giới thiệu. Điều 2 MỨC TRÍCH THƯỞNG VÀ THỜI HẠN THANH TOÁN TIỀN TRÍCH THƯỞNG Ngay sau khi Bên A ký hợp đồng chuyển nhượng với bên thứ ba do Bên B giới thiệu, Bên A sẽ trích thưởng cho Bên B với số tiền là …….VNĐ Bằng chữ….. đồng. Bên A sẽ thanh toán tiền trích thưởng Bên B theo hình thức tài khoản bên B cung cấp. Số tài khoản………………. Ngân hàng…………………. Chủ tài khoản……………………… Điều 3 PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP – Trong quá trình thực hiện hợp đồng mà phát sinh các tranh chấp, các bên sẽ cùng nhau thương lượng giải quyết trên nguyên tắc tôn trọng quyền lợi của nhau; – Trong trường hợp không giải quyết được, thì một trong hai bên sẽ có quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật. Mọi tranh chấp sẽ được phán xử theo quy định của pháp luật Việt Nam. Điều 4 ĐIỀU KHOẢN CUỐI – Hai bên hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc thực hiện giao kết hợp đồng này; – Hai bên đã tự đọc, đã hiểu và đồng ý tất cả các điều khoản ghi trong hợp đồng và ký vào hợp đồng này; – Hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm hai bên ký kết; – Hợp đồng này được lập thành hai bản, mỗi bản 02 trang có nội dung và giá trị pháp lý như nhau, mỗi bên giữ một bản. Các bên đã đọc, hiểu rõ toàn bộ nội dung của hợp đồng và đồng ý ký tên trên tinh thần tự nguyện, không bị ép buộc hoặc lừa dối./. Bên A Ký, ghi rõ họ tên …………………………………………. Bên B Ký, ghi rõ họ tên ………………………………… Bên làm chứng Ký, ghi rõ họ tên …………………………………………. Tư vấn soạn thảo hợp đồng hứa thưởng Luật Hùng Sơn với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn về hợp đồng, giải quyết tranh chấp những phát sinh trong hợp đồng sẽ luôn là lựa chọn đúng đắn khi các bạn tìm đến. Đến với Luật Hùng Sơn bạn sẽ nhận được Tư vấn các quy định của pháp luật và việc áp dụng trong thực tiễn liên quan đến các điều khoản trong các loại hợp đồng hứa thưởng; Tham gia đàm phán hợp đồng hứa thưởng, Tư vấn và tham gia các giai đoạn thương thảo để thực hiện ký kết hợp đồng hứa thưởng cùng với khách hàng; Nghiên cứu tài liệu liên quan, tìm hiểu thông tin liên quan về các bên của hợp đồng trong các trường hợp cụ thể theo yêu cầu của khách hàng để từ đó đưa ra giải pháp tư vấn tối ưu cho việc soạn thảo và ký kết hợp đồng hứa thưởng, đảm bảo lợi ích tối đa cho khách hàng và cân bằng được lợi ích của các bên trong hợp đồng; Thẩm định các nội dung trong bản dự thảo hợp đồng hứa thưởng của khách hàng với các đối tác theo các yêu cầu của khách hàng và theo quy định của pháp luật; Soạn thảo hợp đồng trên cơ sở các yêu cầu của khách hàng và theo quy định của pháp luật, đảm bảo tối đa quyền lợi của khách hàng và cân bằng lợi ích của các bên trong hợp đồng; Tư vấn pháp lý các vấn đề liên quan khác trên cơ sở các quy định của pháp luật về hợp đồng hứa thưởng theo yêu cầu của khách hàng; Tư vấn, giải quyết tranh chấp hợp đồng hứa thưởng; Tư vấn, giải thích nội dung liên quan đến hợp đồng hứa thưởng cho khách hàng; Tư vấn toàn diện các vấn đề liên quan đến hợp đồng hứa thưởng của khách hàng. Trên đây là toàn bộ chia sẻ của Luật Hùng Sơn về Mẫu hợp đồng hứa thưởng mới nhất năm. Nếu các còn bất cứ vấn đề nào chưa được làm rõ, xin vui lòng liên hệ với chúng tôi đến số Tổng đài 19006518 About Latest Posts Ông Hùng đã làm việc cho Hùng Sơn Law từ những ngày đầu thành lập và có hơn 6 năm kinh nghiệm trong việc tư vấn và hành nghề luật sư tại Việt Nam liên quan đến các Dự án Đầu tư Nước ngoài và Trong nước; Sáp nhập và Mua lại; Luật Doanh nghiệp; Sở hữu trí tuệ. Với những kinh nghiệm có được luật sư Hùng chắc chắn sẽ giúp bạn giải quyết những vấn đề pháp lý đòi hỏi chuyên môn cao
Mẹo nhỏ Để tìm kiếm chính xác các bài viết của AZLAW, hãy search trên Google với cú pháp "Từ khóa" + "azlaw". Ví dụ thành lập công ty azlaw. Tìm kiếm ngayHứa thưởng là một chế định pháp lý được pháp luật dân sự quy định và điều chỉnh, đây là một chế định đặc biệt vì thể hiện hành vi pháp lý đơn phương của một bên chủ thể. Do đó, bài viết này của AZLAW sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ hơn quy định của pháp luật về vấn đề này. Hứa thưởng là một chế định pháp lý đặc biệt có tính đơn phương, theo đó người hứa công khai đưa ra điều kiện, hạn mức của mình mà không phụ thuộc và các chủ thể khác. Đây cũng là một chế độ pháp lý được Bộ luật dân sự điều chỉnh và quy định. Hứa thưởng là gì? Quy định tại điều 570 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về hứa thưởng như sau Điều 570. Hứa thưởng1. Người đã công khai hứa thưởng phải trả thưởng cho người đã thực hiện công việc theo yêu cầu của người hứa Công việc được hứa thưởng phải cụ thể, có thể thực hiện được, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Phân tích về hứa thưởng– Hứa thưởng là hành vi pháp lý đơn phương, thể hiện ý chí ban đầu của một bên chủ thể mà không có sự thỏa thuận thống nhất ý chí giữa các bên như hợp đồng dân sự. Ý chí của bên hứa thưởng phải được thể hiện một cách công khai, chủ thể bên nhận thưởng có thể được xác định rõ ràng hoặc không. Khi chủ thể bên nhận thưởng không được xác định cụ thể thì một người nào thực hiện công việc sẽ được coi là chấp nhận đề nghị giao kết của bên hứa thưởng. Nghĩa vụ thực hiện công việc của bên được nhận thưởng trong quan hệ hứa thưởng không phải là nghĩa vụ bắt buộc, vậy nên người này có thể thực hiện nhưng cũng có thể không thực hiện và nếu không thực hiện thì sẽ không nhận được giải thưởng– Công việc được hứa thưởng phải được xác định cụ thể, có thể thực hiện được không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Trường hợp công việc hứa thưởng không đáp ứng được những yêu cầu này thì giao dịch sẽ bị coi là vô hiệu, nếu gây ra thiệt hại cho người khác thì bên hứa thưởng và bên thực hiện công việc sẽ cùng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Đối với giao dịch dân sự có điều kiện thì được quy định tại điều 120 luật dân sự 2015. Điều 120. Giao dịch dân sự có điều kiện1. Trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy Trường hợp điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; trường hợp có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên cố ý thúc đẩy cho điều kiện xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra. Nội dung trên được hiểu bao gồm các điều kiện sau– Có thỏa thuận về điều kiện phát sinh– Giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ– Có tác động của một trong hai bên trực tiếp, gián tiếp có thể xảy ra hoặc không xảy ra trong từng trường hợp.– Các điều kiện đó dự liệu khả năng có thể xảy ra nhưng không chắc chắn xảy ra trong tương lai. Có 2 cách hiểu trong trường hợp này Thứ 1, vì trong giao dịch có điều kiện các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ. Mà hứa thường là hành vi pháp lý đơn phương của một chủ thể đưa ra điều kiện mà không cần thỏa thuận với một chủ thể nào khác. Như vậy, hứa thưởng không thể là giao dịch dân sự có điều kiện được, bởi phải có thỏa thuận. Thứ 2, Hành vi pháp lý đơn phương cũng là giao dịch dân sự, bên cạnh sự thể hiện là một hành vi pháp lý đơn phương và có tính công khai thì khi các chủ thể khác không giới hạn chủ thể, có thể có 1 số điều kiện nhưng không chỉ ra 1 hay bắt buộc 1 số chủ thể nào có thể thực hiện được các điều kiện về công việc đó thì cũng được xem như việc chấp nhận giao kết đối với chủ thể hứa thưởng. Vì vậy, hứa thưởng cũng được xem như một giao dịch dân sự có điều kiện. Ví dụ Ông A, thông báo cho toàn thể nhân viên trong công ty, tháng sau nếu ai có thể làm tăng doanh thu công ty lên 0,5 % thì hứa sẽ tặng cho 1 chiếc Iphone 7. Nếu có 1 nhân viên nào đó hay 1 nhóm nhân viên làm được thì ông A sẽ trả thưởng cho những người đó. Còn nếu không có 1 nhân viên nào có thể thực hiện được thì điều kiện phát sinh không có. Cách thức trả thưởng được quy định tại điều 572 bộ luật dân sự 2015. Rút lại tuyên bố hứa thưởng Quy định tại điều 571 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về việc rút lại tuyên bố hứa thưởng Điều 571. Rút lại tuyên bố hứa thưởngKhi chưa đến hạn bắt đầu thực hiện công việc thì người hứa thưởng có quyền rút lại tuyên bố hứa thưởng của mình. Việc rút lại tuyên bố hứa thưởng phải được thực hiện theo cách thức và trên phương tiện mà việc hứa thưởng đã được công bố. Quy định này nhằm đảm bảo quyền tự do giao kết hợp đồng giữa các bên, bên hứa thưởng có thể rút lại tuyên bố hứa thưởng của mình. Việc rút lại tuyên bố hứa thưởng chỉ được chấp nhận khi– Rút lại tuyên bố hứa thưởng thực hiện khi chưa đến hạn bắt đầu thực hiện công việc. Khi không có quy định về thời hạn bắt đầu thực hiện công việc, thì rút tuyên bố hứa thưởng được phải được thực hiện trước khi bên được nhận thưởng bắt đầu thực hiện công việc– Việc rút tuyên bố hứa thưởng phải được thực hiện theo cách thức và phương tiện mà việc hứa thưởng đã được công bố. Nếu vi phạm quy định này thì việc rút tuyên bố sẽ không có hiệu lực pháp luật và bên hứa thưởng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ trả thưởng hoặc bồi thường thiệt hại Trả thưởng theo tuyên bố hứa thưởng theo quy định tại điều 573 Bộ luật dân sự 2015 được thực hiện như sau Điều 572. Trả thưởng1. Trường hợp một công việc được hứa thưởng do một người thực hiện thì khi công việc hoàn thành, người thực hiện công việc đó được nhận Khi một công việc được hứa thưởng do nhiều người cùng thực hiện nhưng mỗi người thực hiện độc lập với nhau thì người hoàn thành đầu tiên được nhận Trường hợp nhiều người cùng hoàn thành công việc được hứa thưởng vào cùng một thời điểm thì phần thưởng được chia đều cho những người Trường hợp nhiều người cùng cộng tác để thực hiện công việc được hứa thưởng do người hứa thưởng yêu cầu thì mỗi người được nhận một phần của phần thưởng tương ứng với phần đóng góp của mình.
Bạn muốn tìm hiểu về hợp đồng trích thưởng? Mẫu hợp đồng này được hiểu như thế nào? Văn bản này có thể được xem như một dạng hợp đồng đặc biệt nhằm khuyến khích chủ thể đạt được điều gì đó trong tương lai. Vậy làm sao để soạn mẫu hợp đồng này đúng quy định pháp luật nhất? Hãy cùng JES tìm hiểu trong bài viết “Soạn mẫu hợp đồng trích thưởng, hứa thưởng đúng quy định” dưới đây. Định nghĩa về hợp đồng trích thưởng, hợp đồng hứa thưởng Hợp đồng trích thưởng, hứa thưởng được thực hiện giữa các bên nhằm mục đích khuyến khích hoàn thành công việc được giao. Việc hứa thưởng, trích thưởng được thực hiện khi công việc hoặc đạt kết quả kinh doanh và mang lại lợi ích kinh tế cao. Hợp đồng trích thưởng, hứa thưởng thường đi kèm với hợp đồng mua bán hay biên bản hợp tác. Căn cứ đầu tiên áp dụng đó chính là Bộ luật dân sự 2015, văn bản quy định chung về hợp đồng và ghi nhận các điều khoản chung về hứa thưởng tại Điều 570 đến điều 573, cụ thể Quy định về trích thưởng Người đã công khai hứa thưởng phải trả thưởng cho người đã thực hiện công việc theo yêu cầu của người hứa thưởng. Khi chưa đến hạn bắt đầu thực hiện công việc thì người hứa thưởng có quyền rút lại tuyên bố hứa thưởng của mình. Công việc được hứa thưởng phải cụ thể, có thể thực hiện được, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Việc rút lại tuyên bố hứa thưởng phải được thực hiện theo cách thức và trên phương tiện mà việc hứa thưởng đã được công bố. Mẫu hợp đồng trích thưởng cập nhật nội dung mới nhất CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc ———–o0o————- HỢP ĐỒNG TRÍCH THƯỞNG Hôm nay, ngày ………tháng……… năm 20…..tại địa điểm…………………………… Chúng tôi gồm có ĐẠI DIỆN BÊN TRÍCH THƯỞNG Ông Bà…………………………………………….Sinh năm…………………… CMTND số……………………Do……………Cấp ngày…..tháng.….năm…….…. Hộ khẩu thường trú…………………………………………………………………… Nơi ở hiện nay…………………………………………………………………….. Điện thoại…………………………………………………………………………… Sau đây gọi tắt là bên A ĐẠI DIỆN BÊN ĐƯỢC TRÍCH THƯỞNG Ông Bà…………………………………………….Sinh năm……………………. CMTND số……………………Do…………..Cấp ngày…..tháng.….năm…….…. Hộ khẩu thường trú………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… Nơi ở hiện nay…………………………………….……………………………….. ……………………………………………………………………………………… Điện thoại………………………………………………………………………….. Sau đây gọi tắt là bên B Sau khi đã bàn bạc một cách kỹ lưỡng hai bên đều nhất trí đi đến thống nhất với các điều khoản trong Hợp đồng trích thưởng sau Điều 1 Lý do trích thưởng …………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………… Điều 2 Điều kiện trích thưởng và hình thức trích thưởng Trích thưởng …………………………………………………………………………………………. …………………………………………………………………………………………. Hình thức trích thưởng …………………………………………………………………………………………. …………………………………………………………………………………………. Điều 3 Cam kết của hai bên Cam kết của bên A Trích thưởng cho Bên B đúng và đủ số tiền ở điều 2 Thực hiện đúng và đầy đủ nội dung trong Hợp đồng trích thưởng. Việc trích thưởng là do Bên A tự nguyện. Cam kết của bên B. Thực hiện đúng và đầy đủ nội dung trong hợp đồng. Điều 4 Ký kết Hai bên đã đọc lại nguyên văn bản Hợp đồng trích thưởng này, cùng nhất trí ký vào để làm bằng chứng, hợp đồng được lập thành 02 bản chính, mỗi bản gồm ….trang, mỗi bên giữ 01 bản đều và đều có giá trị pháp lý như nhau. ĐẠI DIỆN BÊN TRÍCH THƯỞNG Ký và ghi rõ họ tên ĐẠI DIỆN BÊN ĐƯỢC TRÍCH THƯỞNG Ký và ghi rõ họ tên Các mẫu hợp đồng trích thưởng, hứa thưởng thông dụng Hợp đồng hứa thưởng theo mẫu mới CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc ———–o0o————- HỢP ĐỒNG HỨA THƯỞNG Hôm nay, ………………………………………. tại ……………….., Chúng tôi gồm có BÊN TRẢ THƯỞNG CÔNG TY…………………………. Mã số thuế……………………….. Địa chỉ ……………………………… Đại diện ……………………………. Chức vụ …………… Sau đây gọi tắt là bên A BÊN NHẬN THƯỞNG CÔNG TY…………………………. Mã số thuế……………………….. Địa chỉ ……………………………… Đại diện ……………………………. Chức vụ………………………. Sau đây gọi tắt là bên B Sau khi đã bàn bạc một cách kỹ lưỡng hai bên đều nhất trí đi đến thống nhất với các điều khoản trong Hợp đồng trích thưởng sau Điều 1 Lý do hứa thưởng ………………………………………………………………. ………………………………………………………………. Điều 2 Điều kiện trả thưởng và hình thức trả thưởng Điều kiện trả thưởng ……………………………………………………. ……………………………………………………. Hình thức trả thưởng Số tiền trả thưởng là …% giá trị hợp đồng đối tác do Bên B tìm kiếm ký kết Hợp đồng trích thưởng với Bên A Trả thưởng bằng tiền mặt Việt Nam đồng Bên A sẽ trả thưởng cho Bên B sau khi thỏa mãn như điều kiện trên Điều Điều 3 Cam kết của hai bên Cam kết của bên A Thực hiện đúng và đầy đủ nội dung trong hợp đồng. Trả thưởng cho Bên B đúng và đủ số tiền ở điều 2 Việc trả thưởng là do Bên A tự nguyện. Cam kết của bên B Thực hiện đúng và đầy đủ nội dung trong hợp đồng. Điều 4 Ký kết Hai bên đã đọc lại nguyên văn bản Hợp đồng trích thưởng này, cùng nhất trí ký vào để làm bằng chứng, hợp đồng được lập thành 02 bản chính, mỗi bản gồm 03 trang, mỗi bên giữ 01 bản đều và đều có giá trị pháp lý như nhau. ĐẠI DIỆN BÊN TRẢ THƯỞNG ĐẠI DIỆN BÊN ĐƯỢC TRẢ THƯỞNG Hợp đồng trích thưởng hoa hồng bất động sản CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc ———–o0o————- HỢP ĐỒNG TRÍCH THƯỞNG Hôm nay, ngày………tháng……….năm 20…..tại địa điểm………………………………… Chúng tôi gồm có ĐẠI DIỆN BÊN TRÍCH THƯỞNG Ông Bà…………………………………………….Sinh năm…………………… CMTND số……………………Do……………Cấp ngày…..tháng.….năm…….…. Hộ khẩu thường trú………………………………………………………………… Nơi ở hiện nay…………………………………………………………………….. Điện thoại…………………………………………………………………………… Sau đây gọi tắt là bên A ĐẠI DIỆN BÊN ĐƯỢC TRÍCH THƯỞNG Ông Bà…………………………………………….Sinh năm……………………. CMTND số……………………Do…………..Cấp ngày…..tháng.….năm…….…. Hộ khẩu thường trú………………………………………………………………… Nơi ở hiện nay…………………………………….……………………………….. Điện thoại………………………………………………………………………….. Sau đây gọi tắt là bên B Sau khi đã bàn bạc một cách kỹ lưỡng hai bên đều nhất trí đi đến thống nhất ký kết hợp đồng trích thưởng với các điều khoản sau Điều 1 Lý do trích thưởng Bên B thay mặt Bên A tìm cho Bên A một lô đất có diện tích 2000m2 – 2500m2, nay Bên B đã tìm được cho Bên A lô đất – NO tuyến đường Láng Hạ – Thanh Xuân đường Lê Văn Lương, phường Nhân Chính, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội phù hợp với yêu cầu của Bên A. Lô đất có đặc điểm như sau + Diện tích lô đất + Ranh giới lô đất Đông Bắc giáp phố Hoàng Ngân đường 361 cũ Tây Nam giáp đường nhánh đường Lê Văn lương Đông Nam giáp khu dân cư cụm chùa Tây Bắc giáp đường Lê Văn Lương Điều 2 Điều kiện trích thưởng và hình thức trích thưởng a. Điều kiện trích thưởng Bên A sẽ trích thưởng cho Bên B sau khi Bên A đã tiếp xúc với chủ dự án hoặc đại diện của chủ dự án lô đất trên. Giá cả cũng như cách thức chuyển nhượng lô đất trên do Bên A tự thỏa thuận với chủ dự án hoặc đại diện chủ dự án của lô đất trên. Giữa Bên A và đại chủ dự án hoặc đại diện của chủ dự án lô đất trên đã tiến hành làm thủ tục chuyển nhượng hoặc các hình thức tương tự đồng thời Bên A đã giao cho chủ dự án hoặc đại diện của chủ dự án lô đất trên số tiền lớn hơn 30% tổng giá trị hợp đồng của lô đất. b. Hình thức trích thưởng Số tiền trích thưởng là Hai trăm sáu mưới triệu đồng chẵn Trích thưởng bằng tiền mặt Việt Nam đồng Bên A sẽ trích thưởng cho Bên B sau khi thỏa mãn như điều kiện trên Điều 2 khoản a. Điều 3 Cam kết của hai bên a. Cam kết của bên A Thực hiện đúng và đầy đủ nội dung trong Hợp đồng trích thưởng. Việc trích thưởng là do Bên A tự nguyện. Trích thưởng cho Bên B đúng và đủ số tiền ở điều 2 kết của bên B. Thực hiện đúng và đầy đủ nội dung trong hợp đồng. Điều 4 Ký kết Hai bên đã đọc lại nguyên văn bản hợp đồng này, cùng nhất trí ký vào để làm bằng chứng, Hợp đồng trích thưởng được lập thành 02 bản chính, mỗi bản gồm 02 trang, mỗi bên giữ 01 bản đều và đều có giá trị pháp lý như nhau. ĐẠI DIỆN BÊN TRẢ THƯỞNG ĐẠI DIỆN BÊN ĐƯỢC TRẢ THƯỞNG Lưu ý khi soạn hợp đồng trích thưởng, hứa thưởng Nêu rõ thông tin của hai bên ký hợp đồng bao gồm bên A và bên B với đầy đủ những thông tin như tên doanh nghiệp hoặc cá nhân, địa chỉ, mã số thuế, hoặc số CMND, số điện thoại liên hệ. Trong bản hợp đồng trích thưởng, cả hai bên cùng nhau cam kết thực hiện theo các điều kiện đã nêu ban đầu, một trong hai bên có quyền chấm dứt hợp đồng nếu bên kia thực hiện không đúng theo yêu cầu. Tất cả những thông tin trên đều phải đảm bảo đúng để có thể liên hệ lúc tranh chấp hoặc mâu thuẫn. Nêu rõ lý do trích thưởng, điều kiện trích thưởng và hình thức trích thưởng. XEM THÊM Mẫu biên bản cam kết chịu trách nhiệm giữa hai bên mới nhất Tóm lại vấn đề Trên đây là những mẫu hợp đồng trích thưởng được sử dụng phổ biến nhất, có thể dùng được trong nhiều tình huống khác nhau. Cũng như một số lưu ý bạn cần biết để có thể soạn mẫu văn bản này đúng quy định nhất. Hi vọng rằng bài viết này sẽ cung cấp cho bạn những thông tin mà bạn đọc đang tìm kiếm.
LSVN - Bộ luật Dân sự BLDS năm 2005 cũng như năm 2015 quy định về chế định hứa thưởng là một hành vi pháp lý đơn phương. Tuy vậy, trong thực tiễn giải quyết tranh chấp, có nhiều vụ việc hứa thưởng phát sinh nhưng không phải là hành vi pháp lý đơn phương mà là một dạng hợp đồng. Việc phân biệt hứa thưởng là hành vi pháp lý đơn phương hay hợp đồng có vai trò quan trọng trong việc giải quyết đúng đắn vụ án. Qua nghiên cứu, bình luận vụ án về tranh chấp hợp đồng hứa thưởng mà do ông Đặng Đình T. khởi kiện bà Vương Thị K., ông Nguyễn Đắc Q. do Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh giải quyết bản án sau đó bị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy, giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sở thẩm lại. Chúng tôi đưa ra một số ý kiến bình luận về vụ án, chế định hứa thưởng, hợp đồng hứa thưởng cũng như một số vấn đề cần rút kinh nghiệm khi giải quyết các vụ án này. Ảnh minh hoạ. Tóm tắt nội dung vụ án Nhà và đất tại số 446-448 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của vợ chồng bà Vương Thị K., ông Nguyễn Đắc K. Do gia đình ông K. ra nước ngoài định cư nên căn nhà này được Nhà nước quản lý theo diện nhà vắng chủ. Sau khi ông K. qua đời, năm 2006 bà Vương Thị K. và con trai là ông Nguyễn Đắc Q. bà K. và ông K. có 9 người con nhờ Luật gia Đặng Đình T. tiến hành các thủ tục đòi lại nhà đất nêu trên. Ngày 03/01/2007 bà K., ông Q. và ông T. đã lập Hợp đồng hứa thưởng với nội dung trả thưởng cho ông T. 15% trên tổng giá trị nhà đất mà gia đình bà K. được Nhà nước giao trả khi ông T. đòi được nhà đất nêu trên. Ngày 22/01/2008 và 02/7/2008 bà K., ông Q. và ông T. tiếp tục ký kết phụ lục hợp đồng và bản cam kết với nội dung tăng phần thưởng và thù lao cho ông T. lên 25% và 30%. Ngày 28/11/2011 bà K., ông Q. và ông T. lại ký bản thỏa thuận hứa thưởng với nội dung cam kết trả thưởng cho ông T. 35% giá trị nhà đất đòi được. Sau khi lấy lại được nhà, bà K. cùng con trai là ông Q. đã thực hiện nhiều giao dịch mua bán, cho thuê với căn nhà nhưng không thực hiện hợp đồng hứa thưởng với ông Đặng Đình T. Ông T. đã nhiều lần yêu cầu nhưng phía bà K., ông Q. không thực hiện việc hứa thưởng như đã cam kết. Do đó, ông T. khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà K., ông Q. thực hiện cam kết hứa thưởng. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều nhận định Hợp đồng hứa thưởng ký kết ngày 28/11/2008 giữa ông T. với bà K., ông Q. là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội, có chứng nhận của Công chứng viên thuộc Văn phòng Công chứng công tại hạt O, bang C, Hoa Kỳ. Do vậy, yêu cầu của ông T. đòi bà K., ông Q. trả thưởng bằng 35% giá trị nhà đất ông T. đòi được là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, tại Quyết định giám đốc thẩm số 35/2017/DS-GĐT ngày 07/9/2017 Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hủy Bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại. Bình luật Về tố tụng Vụ án này phát sinh một số vấn đề tố tụng cần làm rõ và rút kinh nghiệm, cụ thể như sau Thứ nhất, tài liệu được lập ở nước ngoài, do cơ quan nước ngoài chứng nhận phải được hợp pháp hóa lãnh sự mới có giá trị sử dụng làm chứng cứ Cụ thể, theo Tòa án nhân dân tối cao các phụ lục hợp đồng ngày 22/01/2008, bản cam kết ngày 02/7/2008 và thỏa thuận hứa thưởng ngày 28/11/2008 có nội dung tăng thêm phần hứa thưởng cho ông T. đều được ký tại bang C, Hoa Kỳ và được công chứng viên thuộc phòng công chứng bang C, Hoa Kỳ chứng nhận cùng ngày là chưa đủ cơ sở pháp lý để được coi là chứng cứ vì không được hợp pháp hóa lãnh sự của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam tại Hoa Kỳ, vi phạm khoản 1 Điều 418 Bộ luật Tố tụng dân sự BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 nay là điểm b khoản 2 Điều 478 BLTTDS năm 2015. Về vấn đề này, trước đây khoản 1 Điều 418 BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 quy định “Điều 418. Công nhận giấy tờ, tài liệu do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận 1. Giấy tờ, tài liệu do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc ở ngoài lãnh thổ Việt Nam được Toà án Việt Nam công nhận nếu giấy tờ, tài liệu đó đã được hợp pháp hoá lãnh sự, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác”. Như vậy, theo Tòa án nhân dân tối cao Hợp đồng hứa thưởng ký kết ngày 28/11/2008 giữa ông T. với bà K., ông Q. là tài liệu được lập ở nước ngoài và cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài xác nhận công chứng viên bang C, Hoa Kỳ. Do đó, để sử dụng làm chứng cứ tại Tòa án Việt Nam phải được hợp pháp hóa lãnh sự [1]. Về vấn đề này, có quan điểm cho rằng Quyết định giám đốc thẩm nhận định văn bản cam kết trả thù lao được lập tại Hoa Kỳ trước cơ quan Công chứng nhưng không được hợp pháp hóa lãnh sự nên không có giá trị pháp lý là chưa chính xác. Bởi lẽ, khi bà K., ông Q. lập cam kết với ông T. tại Hoa Kỳ, đó là cam kết giữa cá nhân với cá nhân được cơ quan công chứng của Hoa Kỳ xác nhận nên có hiệu lực thực hiện đối với các cá nhân có liên quan [2]. Quan điểm này có sự nhầm lẫn giữa giá trị pháp lý của Hợp đồng hứa thưởng và việc Hợp đồng hứa thưởng có được sử dụng làm chứng cứ hay không. Cần phân biệt rằng, Hợp đồng hứa thưởng ngày 28/11/2008 giữa bà K., ông Q. với ông T. nếu được ký kết đúng quy định pháp luật, được công chứng viên của Hoa Kỳ chứng nhận là đã có hiệu lực pháp lý, ràng buộc trách nhiệm giữa các bên. Tuy nhiên, để được sử dụng làm chứng cứ trước Tòa án Việt Nam, thì theo quy định của BLTTDS phải được hợp pháp hóa lãnh sự. Nếu chưa hợp pháp hóa lãnh sự thì chưa có giá trị làm chứng cứ trước Tòa án Việt Nam. Tòa án nhân dân tối cao cũng nhận định, do chưa được hợp pháp hóa lãnh sự nên chưa đủ cơ sở pháp lý để được coi là chứng cứ chứ không xác định do chưa được hợp pháp hóa lãnh sự do đó không có giá trị pháp lý đối với các bên. Về vấn đề này, hiện nay điểm b, khoản 2 Điều 478 BLTTDS năm 2015 quy định rõ “Điều 478. Công nhận giấy tờ, tài liệu do cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài gửi cho Tòa án Việt Nam ........ 2. Tòa án Việt Nam công nhận giấy tờ, tài liệu do cá nhân cư trú ở nước ngoài lập trong các trường hợp sau đây a Giấy tờ, tài liệu lập bằng tiếng nước ngoài đã được dịch ra tiếng Việt có công chứng, chứng thực hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam; b Giấy tờ, tài liệu được lập ở nước ngoài được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật nước ngoài và đã được hợp pháp hóa lãnh sự”. Như vậy, theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 478 BLTTDS năm 2015 thì đối với các tài liệu do cá nhân cư trú ở nước ngoài lập ở nước ngoài, được công chứng, chứng thực theo quy định của nước ngoài và đã được hợp pháp hóa lãnh sự thì Tòa án công nhận đó là chứng cứ. Khi giải quyết lại vụ án nêu trên, BLTTDS năm 2015 đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, Hợp đồng hứa thưởng ký kết ngày 28/11/2008 giữa ông T. với bà K., ông Q. phải được hợp pháp hóa lãnh sự mới được Tòa án công nhận làm chứng cứ. Thứ hai, đương sự không thừa nhận có ký vào các hợp đồng, Tòa án cần giám định chữ ký để có căn cứ giải quyết vụ án Trong vụ án này, bà K. chỉ thừa nhận có ký với ông Đặng Đình T. hợp đồng hứa thưởng ngày 03/01/2007 với mức hứa thưởng là 15% giá trị nhà đất đòi được, còn các thỏa thuận sau về tăng mức hứa thưởng do ông T. xuất trình trong đó có Hợp đồng hứa thưởng ngày 28/11/2008 đều được lập tại Hoa Kỳ bà K. không ký. Theo nhận định của Tòa án nhân dân tối cao thì “Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xem xét, xác định có đúng bà K., ông Q. ký các thỏa thuận nêu trên hay không”. Tại Thông báo rút kinh nghiệm số 229/TB-VKSTC ngày 31/5/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có nêu “Bị đơn bà K. chỉ thừa nhận ký Hợp đồng hứa thưởng ngày 03/01/2007, các văn bản sau đó do ông T. xuất trình Phụ lục hợp đồng ngày 22/01/2008, Bản cam kết ngày 02/7/2008 và Thỏa thuận hứa thưởng ngày 28/11/2008 có nội dung tăng thêm phần thưởng cho ông T. lần lượt là 25%, 30% và 35% đều được ký tại bang C, Hoa Kỳ… Bà K. và ông Q. không thừa nhận việc ký các thỏa thuận này. Lẽ ra, Tòa án cần xem xét, làm rõ có việc bà K., ông Q. ký các giấy tờ nêu trên hay không, trong trường hợp cần thiết thì phải giám định chữ ký của bà K., ông Q. để làm căn cứ giải quyết vụ án”. Như vậy, theo Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trường hợp này cần phải làm rõ chữ ký trong các văn bản hứa thưởng có phải do bà K., ông Q. ký hay không vì họ không thừa nhận là chữ ký của họ, trường hợp cần thiết phải giám định chữ ký để có cơ sở giải quyết. Về vấn đề này cần lưu ý rằng, do bà K., ông Q. không thừa nhận chữ ký trong các văn bản hứa thưởng đặc biệt là Hợp đồng hứa thưởng cuối cùng ngày 28/11/2008 là của họ. Như vậy, bà K., ông Q. cho rằng, Hợp đồng hứa thưởng ngày 28/11/2008 mà ông T. xuất trình là giả vì không phải họ ký. Do đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 103 BLTTDS năm 2015 thì bà K., ông Q. cho rằng đây là chứng cứ giả thì có quyền yêu cầu Tòa án giám định chữ ký. Nếu đương sự không có yêu cầu thì Tòa án có thể tự mình ra Quyết định giám định chữ ký trong trường hợp này từ đó có cơ sở giải quyết vụ án một cách triệt để. Thứ ba, cần giải quyết các quan hệ tranh chấp có liên quan mật thiết với nhau trong cùng một vụ án Theo nhận định của Tòa án nhân dân tối cao, trong vụ án này, có nhiều quan hệ tranh chấp hứa thưởng, yêu cầu công nhận giấy ủy quyền, trả tiền đặt cọc, hủy bỏ văn bản khai nhận di sản thừa kế, trả tiền thuê nhà…, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm chỉ giải quyết phần hứa thưởng và hủy các quan hệ pháp luật khác và tiếp tục duy trì áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với nhà đất nêu trên để bảo đảm thi hành nghĩa vụ trả thưởng của bà K., ông Q. cho ông T. là không đúng, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khác. Đồng thời với việc ông T. khởi kiện yêu cầu bà K., ông Q. thực hiện nghĩa vụ trả thưởng. Vụ án này còn nhiều quan hệ tranh chấp khác như yêu cầu công nhận giấy ủy quyền, trả tiền đặt cọc, hủy bỏ văn bản khai nhận di sản thừa kế, trả tiền thuê nhà… Trong đó, nếu chấp nhận yêu cầu về công nhận giấy ủy quyền thì ông T. phải trả cho ông Q. một số tiền cụ thể…. Tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm đã giữ nguyên nội dung bản án sơ thẩm về hứa thưởng nhưng hủy các quan hệ pháp luật khác và tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với căn nhà 446-448 Nguyễn Thị Minh Khai để bảo đảm thi hành án nhưng lại hủy các quan hệ pháp luật tranh chấp khác để giải quyết lại. Điều này có khả năng gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khác trong vụ án. Lẽ ra, trong vụ án này, Tòa án phải giải quyết đồng thời các quan hệ tranh chấp trong cùng một vụ án và đối trừ nghĩa vụ giữa các đương sự thì mới bảo đảm quyền lợi của họ theo quy định tại Điều 38 BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung 2011 nay là Điều 42 BLTTDS năm 2015. Đây là vấn đề tố tụng cần lưu ý khi giải quyết các vụ án có nhiều quan hệ tranh chấp nhưng liên quan mật thiết với nhau hoặc có thể đối trừ nghĩa vụ với nhau giữa các đương sự. Về nội dung Thứ nhất, quan hệ hứa thưởng giữa ông Đặng Đình T. với bà Vương Thị K., ông Nguyễn Đắc Q. trong vụ án này là quan hệ hợp đồng, không phải hứa thưởng như BLDS đã ghi nhận. Cần khẳng định rằng, các bản thỏa thuận hứa thưởng mà ông T. đã ký với bà K., ông Q. là một hợp đồng. Theo đó, các bên thỏa thuận rõ quyền và nghĩa vụ của nhau. ông T. sẽ đại diện bà K., ông Q. để tiến hành các thủ tục cần thiết nhằm đòi lại căn nhà 446-448 Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Hồ Chí Minh. Nếu ông T. đòi được, bà K., ông Q. phải trả cho ông T. thù lao tương ứng với 35% giá trị nhà đất đòi được. Có thể thấy, đây là quan hệ hợp đồng dịch vụ chứ không phải là chế định hứa thưởng theo quy định của BLDS. Bởi lẽ Một là, hứa thưởng là một dạng hành vi pháp lý đơn phương. BLDS năm 2005 cũng như BLDS năm 2015 đều xác định tính đơn phương của việc hứa thưởng thông qua các nội dung như người hứa thưởng tự đưa ra điều kiện thưởng, tự công khai công việc hứa thưởng, được rút lại tuyên bố hứa thưởng khi chưa đến hạn bắt đầu thực hiện công việc… Nếu là quan hệ hợp đồng dịch vụ thì phải có sự thỏa thuận giữa các bên về điều kiện công việc, thù lao dịch vụ,... Trong vụ án này, giữa ông T. và bà K., ông Q. thỏa thuận cụ thể về nội dung công việc ông T. phải làm, thù lao sau khi đạt được công việc mức thù lao tăng qua các lần ký kết hợp đồng… do đó, cần nhận thức và xác định rõ đây là quan hệ hợp đồng dịch vụ giữa ông T. với bà K., ông Q. Hai là, BLDS năm 2015 đã tách “hứa thưởng và thi có giải” thành một chương riêng, không còn là một mục nằm trong chương “các hợp đồng thông dụng” như BLDS năm 2005. Điều này cho thấy nhà làm luật đã xác định rõ bản chất khác nhau giữa quan hệ hứa thưởng và quan hệ hợp đồng. Như vậy, trong vụ án này và rộng hơn, khi giải quyết các tranh chấp có liên quan đến việc hứa thưởng. Cần xem xét thỏa thuận hứa thưởng của các bên để xác định các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Đối với vụ án này, không thể áp dụng các quy định về hứa thưởng tại mục 13 từ Điều 590 đến Điều 592 BLDS năm 2005, nay là Điều 570 đến Điều 572 BLDS năm 2015 để giải quyết mà phải áp dụng các quy định về hợp đồng để giải quyết. Thứ hai, về tính hợp pháp của thỏa thuận hứa thưởng Như trên chúng tôi đã phân tích, nếu chúng ta xác định quan hệ trong vụ án này là quan hệ hứa thưởng thì chỉ cần áp dụng các quy định về hứa thưởng để giải quyết. Còn nếu xác định là quan hệ hợp đồng hợp đồng hứa thưởng hay hợp đồng dịch vụ thì trước hết phải xem xét đến hiệu lực của hợp đồng thông qua các quy định trong phần chung BLDS về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Trong vụ án này, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đều cho rằng, nhà và đất tại 446-448 Nguyễn Thị Minh Khai có nguồn gốc của vợ chồng bà Vương Thị K. và ông Nguyễn Đắc K., ông K. chết năm 2004 không để lại di chúc. Ông K. và bà K. có 9 con chung nhưng tại các thỏa thuận hứa thưởng chỉ có bà K. và một người con là ông Q. ký mà không có chữ ký hay ý kiến của 8 người con còn lại, đã làm thiệt hại đến quyền lợi của họ. Lẽ, ra, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm phải hỏi ý kiến của 8 người con còn lại về việc trả thưởng cho ông T. như thế nào để làm căn cứ giải quyết vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét các nội dung trên mà chỉ căn cứ vào “Thỏa thuận hứa thưởng” ngày 28/11/2008 được lập tại bang C, Hoa Kỳ để buộc bà K., ông Q. trả cho ông T. 35% giá trị nhà, đất tương đương đồng là chưa đủ căn cứ. Như vậy, theo Tòa án nhân dân tối cao, do đây là quan hệ hợp đồng, nên cần xem xét đến ý chí của 8 người con còn lại của ông K. và bà K. Nếu không được sự đồng ý của họ thì khả năng hợp đồng không được chấp nhận hiệu lực. Quan điểm này cần cân nhắc bởi các lý do sau Việc bà K., ông Q. ký cam kết hứa thưởng với ông Đặng Đình T. để ông T. tiến hành các thủ tục đòi lại nhà 446-448 Nguyễn Thị Minh Khai không những không làm thiệt hại đến quyền lợi của 8 người con còn lại của bà K. mà còn làm lợi cho họ. Bởi lẽ, chính từ cam kết hứa thưởng này, ông T. đã tiến hành các thủ tục cần thiết để đòi lại nhà cho gia đình bà K. và thực tế đã đòi được. Việc đòi được nhà không những mang lại quyền lợi cho bà K., ông Q. mà còn là quyền lợi của 8 người con còn lại. Tại thời điểm ký cam kết hứa thưởng này, nhà đất chưa được Nhà nước công nhận thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của gia đình bà K., sau khi ký cam kết hứa thưởng, ông T. thực hiện công việc và đã đòi được nhà đất cho gia đình bà K. Việc hứa thưởng là thỏa thuận tự nguyện giữa bà K., ông Q. với ông T.. Tòa án buộc bà K., ông Q. trả thưởng cho ông T. căn cứ vào hợp đồng mà các bên đã ký kết chứ không buộc 8 người con còn lại trả thưởng cho ông T. Việc các bên thỏa thuận mức hứa thưởng là 35% giá trị nhà và đất không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của 8 người con còn lại những người không tham gia hứa thưởng. Bởi lẽ, các bên chỉ dùng 35% giá trị nhà đất làm mức hứa thưởng, là cơ sở để xác định mức hứa thưởng. Điều này khác với việc bà K., ông Q. chuyển nhượng hay định đoạt 35% nhà đất cho ông T. Thực tế, Tòa án đã xác định 35% giá trị nhà và đất tương ứng với đồng và buộc bà K., ông Q. phải trả cho ông T. số tiền đó chứ không phải buộc bà K., ông Q. phải làm thủ tục chuyển nhượng cho ông T. 35% nhà và đất. Như vậy, 35% giá trị nhà và đất chỉ là căn cứ để các bên tham gia hợp đồng xác lập mức hứa thưởng, đây là hợp đồng giữa bà K., ông Q. với ông T., 8 người con còn lại không tham gia xác lập hợp đồng, do đó, không cần phải hỏi ý kiến họ. Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi cho rằng, khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cần khắc phục những vi phạm về mặt tố tụng và giải quyết triệt để các quan hệ pháp luật có tranh chấp trong vụ án này. Theo đó, cần chấp nhận đối với yêu cầu của ông Đặng Đình T. buộc bà Vương Thị K. và ông Nguyễn Đắc Q. trả thưởng mà không cần xem xét ý kiến của 8 người con còn lại của ông K., bà K. Tuy nhiên, do nhà và đất tại số 446-448 Nguyễn Thị Minh Khai nêu trên thuộc quyền sở hữu, sử dụng của các đồng thừa kế gồm bà K. và 9 người con còn lại. Do đó, cần đưa họ vào tham gia tố tụng và nếu chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T. thì quá trình thi hành án cần xác định quyền sở hữu, sử dụng của bà K., ông Q. trong khối tài sản chung với 8 đồng thừa kế còn lại để thi hành án nhằm bảo đảm quyền lợi của họ. =================== [1] Hiện nay, Việt Nam và Hoa Kỳ chưa ký Điều ước về miễn hợp pháp hóa lãnh sự/chứng nhận lãnh sự. [2] truy cập lần cuối ngày 06/6/2021. Thạc sĩ NGUYỄN THỊ VÂN ANH Trường Đại học Luật, Đại học Huế Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng nhượng quyền thương mại
Hiện nay, các quan hệ dân sự liên quan đến hợp đồng ngày một nhiều. Một trong số đó liên quan đến hợp đồng hứa thưởng. Mời các bạn tham khảo thêm một số vấn đề pháp lý về hứa thưởng trong bài viết dưới đây. Bài viết được thực hiện bởi Chuyên viên Huỳnh Thu Hương – Công ty Luật TNHH Everest – Tổng đài tư vấn 24/7 1900 6198 Hứa thưởng được hiểu là một bên đưa ra lời tuyên bố hứa thưởng có mục đích làm phát sinh , thay đổi , chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự cho một chủ thể khác. Và khi tuyên bố hứa thưởng khi đã được thể hiện công khai, trực tiếp thì người tuyên bố hứa thưởng sẽ phải trả thưởng cho những người có đủ điều kiện. Bên cạnh đó, hứa thưởng trong công việc mà bên tuyên bố hứa thưởng đưa ra không thỏa mãn được các điều kiện cơ bản thì lời tuyên bố hứa thưởng mặc nhiên không có giá trị. Hứa thưởng có một số đặc điểm như sau + Đây là hành vi pháp lý đơn phương. Theo đó, người hứa thưởng có thể tự mình đưa ra các điều kiện, mức thưởng… mà không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể tham gia. + Khi tham gia vào quan hệ hứa thưởng, các bên hoàn toàn không bị bó buộc bởi một sự cam kết hay thoả thuận song phương nào do bản chất của hứa thưởng là hành vi pháp lý đơn phương. + Có tính công khai, được thể hiện ở chỗ không ấn định cũng như không giới hạn về chủ thể tham gia, mà chỉ đưa ra một số quy ước hay điều kiện nhất định. Về nội dung của hứa thưởng Đối với bên hứa thưởng Bên hứa thưởng phải là pháp nhân hoặc cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi theo quy định của pháp luật dân sự, có nghĩa vụ phải chấp nhận kết quả công việc mà người khác đã hoàn thành và đúng với các điều kiện mà bên hứa thưởng đưa ra. Bên hứa thưởng được quyền rút lại tuyên bố hứa thưởng nếu chưa đến hạn bắt đầu thực hiện công việc. Ngoài ra, bên hứa thưởng có thể tuyên bố về thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc công việc. Trong khoảng thời gian đó, bên hứa thưởng phải thực hiện cam kết của mình nếu người khác đã thực hiện xong những điều kiện hứa thưởng. Đối với những người đã thực hiện công việc không đúng thì bên hứa thưởng không buộc phải trả thưởng. Đối với bên được trả thưởng Bên được trả thưởng là người đã hoàn thành công việc trong thời gian quy định mà bên hứa thưởng tuyên bố và nhận được phần thưởng. Một người hoàn thiện công việc hứa thưởng theo đúng quy định thì người đó có quyền nhận thưởng. Trong trường hợp nhiều người thực hiện công việc nhưng hành vi của họ hoàn toàn độc lập với nhau thì người nào thực hiện xong trước, người đó được nhận thưởng. Trường hợp họ cùng hoàn thành công việc vào cùng một thời điểm thì phần thưởng được chia đều. Đối với trường hợp nhiều người cùng cộng tác để thực hiện công việc do người hứa thưởng yêu cầu, họ sẽ được nhận chung phần thưởng. Xem thêm bài viết chi tiết về các vấn đề về hứa thưởng tại Các vấn đề pháp lý về hứa thưởng Mẫu hợp đồng hứa thưởng CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc HỢP ĐỒNG HỨA THƯỞNG Số ………/……/HĐHT Hôm nay, ngày …… tháng …… năm ….. tại ……………… – Địa chỉ ………………, chúng tôi gồm BÊN HỨA THƯỞNG BÊN A …. CMND số ……………..do Công an……………..cấp ngày ………………. Địa chỉ …………………………………………………………… Số điện thoại ……………………………………………………………. Sau đây gọi là “Bên A”. BÊN ĐƯỢC HỨA THƯỞNG BÊN B …. CMND số ……………..do Công an……………..cấp ngày ………………. Địa chỉ …………………………………………………………… Số điện thoại ……………………………………………………………. Sau đây gọi là “Bên B”. Bằng hợp đồng này, Bên A và Bên B trên đây thỏa thuận và cam kết thực hiện đúng và đầy đủ theo những điều khoản đã được hai bên thống nhất như sau ĐIỀU 1 NỘI DUNG HỨA THƯỞNG Bên A và Bên B thống nhất rằng Bên B sẽ tìm kiếm, giới thiệu và làm trung gian để Bên A chuyển nhượng số tiền ngoại tệ …… USD – Bằng chữ…. của Bên A đang sở hữu và lưu giữ tại …… Các Bên thống nhất rằng, sau khi khi Bên B giới thiệu bên thứ ba mua một phần hoặc toàn bộ số tiền ngoại tệ trên đây, Bên A sẽ trích thưởng cho Bên B theo nội dung thỏa thuận tại Hợp đồng này ngay sau khi Bên A ký hợp đồng chuyển nhượng với bên thứ ba do Bên B giới thiệu mà không phụ thuộc vào kết quả thực hiện hợp đồng chuyển nhượng của Bên A và bên thứ ba do Bên B giới thiệu. ĐIỀU 2 MỨC TRÍCH THƯỞNG VÀ THỜI HẠN THANH TOÁN TIỀN TRÍCH THƯỞNG Ngay sau khi Bên A ký hợp đồng chuyển nhượng với bên thứ ba do Bên B giới thiệu, Bên A sẽ trích thưởng cho Bên B số tiền là …….VNĐ ….. đồng. Bên A sẽ thanh toán tiền trích thưởng Bên B theo các lần như sau Điều 7 PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP – Trong quá trình thực hiện hợp đồng mà phát sinh tranh chấp, các bên cùng nhau thương lượng giải quyết trên nguyên tắc tôn trọng quyền lợi của nhau; – Trong trường hợp không giải quyết được, thì một trong hai bên có quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật. Mọi tranh chấp sẽ được phán xử theo quy định của pháp luật Việt Nam. Điều 8 ĐIỀU KHOẢN CUỐI – Hai bên hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc giao kết hợp đồng này; – Hai bên đã tự đọc, đã hiểu và đồng ý tất cả các điều khoản ghi trong hợp đồng và ký vào hợp đồng này; – Hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm hai bên ký kết; – Hợp đồng này được lập thành hai bản, mỗi bản 05 trang có nội dung và giá trị pháp lý như nhau, mỗi bên giữ một bản. Các bên đã đọc, hiểu rõ toàn bộ nội dung của hợp đồng và đồng ý ký tên trên tinh thần tự nguyện, không bị ép buộc hoặc lừa dối./. Bên A Ký, ghi rõ họ tên …………………………………………. Bên B Ký, ghi rõ họ tên …………………………………………. Bên làm chứng Ký, ghi rõ họ tên …………………………………………. Xem thêm các vấn đề pháp lý liên quan về dân sự tại Pháp trị – Chia sẻ kiến thức pháp lý Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest Bài viết trong lĩnh vực pháp luật nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail info
hợp đồng hứa thưởng