phong tục tập quán miền trung
Phong Tục Tập Quán: Quê Ta: Tim Ca Dao: Lễ Hội Miền Trung : Đại Cương Đình Chùa Miếu Mạo Địa Chí Hình Thành Quê Ta Miền Bắc Quê Ta Miền Trung Lễ Hội Miền Bắc: Trang Ẩm Thực Với nhiều Món Ăn Mặn, Chay, Tết và Tráng Miệng _____ Mời xem trang Tiền Tệ Việt Nam
Biết được căn cứ trung tâm của phong trào là Tân Hòa, ngày 28/2/1863 giặc Pháp mở cuộc tấn công quy mô vào căn cứ này. Nghĩa quân anh dũng chiến đấu suốt 3 ngày đêm, sau đó rút lui để bảo toàn lực lượng, xây dựng căn cứ mới ở Tân Phước. Ngày 20/8/1864, nhờ có tay sai dẫn đường, thực dân Pháp đã tìm ra nơi ở của Trương Định.
Do đó, các bộ, ngành, cơ quan, các địa phương, nhất là các tỉnh, thành phố miền Trung phải tập trung chỉ đạo, triển khai công tác ứng phó bão số 4 theo phương châm "bốn tại chỗ" với tinh thần khẩn trương, quyết liệt nhất. Cảnh báo lũ từ 27/9 đến 30/9
Hai năm sau sự cố kinh hoàng, một lần nữa miền Trung lại liên tiếp hứng chịu những đợt thiên tai dồn dập. Đây giống như một lời nhắc nhở. Miền Trung nói riêng và cả nước nói chung đang ở giai đoạn đỉnh điểm mùa thiên tai năm nay. Từ tháng 8/2022, nhiều cơn bão, ATNĐ
15 Phong Tục Tập Quán Của 3 Miền Bắc Trung Nam Có Gì Ấn Tượng; 16 Top 29 phong tục tập quán của miền bắc 2022 - Hàng Hiệu; 17 Tinh hoa văn hóa với ẩm thực Việt Nam 3 miền Bắc - Trung - Nam; 18 Trang phục truyền thống ba miền Việt Nam; 19 Văn hóa 3 miền bắc trung nam - Bephongngoaidon.com
Jean Claude Van Damme Dating History. Do vị trí địa lý miền Trung nằm giữa 2 miền Bắc – Nam nên phong tục đám hỏi cũng có sự ảnh hưởng nhẹ của hai miền này, do đó cũng mang một ít tính ràng buộc của miền Bắc và pha chút phóng khoáng của miền Nam. Nghi thức ăn hỏi miền Trung thì khá nặng về nghi lễ và lại thiên nhẹ về vật chất vì từ trước tới giờ người Trung đa phần trọng lễ nghi hơn vật chất. Sau đây chúng tôi xin chia sẻ phong tục tập quán đám hỏi của người miền Trung các bạn cùng tìm hiểu nhé. Phong tục tập quán đám hỏi của người miền Trung Phong tục tập quán đám hỏi của người miền Trung. DẠM NGÕ LỄ ĐI NÓI Trong lễ dạm ngõ thì cha mẹ chàng trai sẽ mang một chai rượu, và khay trầu cau sang nhà gái đặt vấn đề về chuyện cưới xin. 2 LỄ ĐÁM HỎI LỄ ĐÍNH HÔN – Lễ vật sẽ bao gồm năm mâm quả Quả trầu cau với 105 quả cau tượng trưng cho câu nói trăm năm hạnh phúc,và quả trà rượu, phong bì tiền để hỗ trợ nhà gái tổ chức lễ đám hỏi hôm đó và vàng thường là đôi hoa tai nhưng cũng có nhà đi nhẫn, quả bánh kem đính hôn, quả nem chả với số lượng chẵn cặp, mâm ngũ quả được kết rồng phượng cầu kỳ. Cũng có nhà theo tục cũ đi thêm một quả bánh su sê nữa. Phong tục tập quán đám hỏi của người miền Trung. – Ngoài vòng tay, nhẫn hoặc hoa tai vàng,thì mẹ chồng còn trao cho con dâu một phong bì tiền mừng dâu. Phong bì tiền dọn trong quả trà rượu sẽ đưa cho ba mẹ cô. Số tiền này ngay sau đó thường được nhà gái cho lại đôi vợ chồng. – Nói về số lượng người trong đoàn rước dâu, thì người Đà Nẵng quan niệm tổng số phải ứng với số sinh hoặc lão 1, 2, 3, 4, 5, 6… tương ứng là sinh, lão, bệnh, tử, sinh, lão…. Đoàn đưa dâu của nhà gái có số lượng nhiều hơn miễn là cũng đảm bảo số sinh hoặc lão. – Và nghi thức sẽ được tiến hành và bao gồm 1. Nghi thức rước lễ vật từ nhà trai đem sang nhà gái Đi đầu sẽ là trưởng đoàn dẫn lễ, tiếp đó là những người cao tuổi được sắp xếp theo vai vế từ trên xuống dưới. Cuối cùng sẽ là chú rể và đội bê tráp. 2. Nghi thức nhận lễ và tiến hành làm lễ Sau khi đoàn rước lễ của nhà trai đã vào nhà thì nhà gái sẽ ra đón khách và đội bê tráp nữ sẽ ra nhận lễ. Lúc nào mà đội bê tráp nam sẽ trao tráp cùng phong bao lì xì đã chuẩn bị trước và trao cho đội tráp nữ, đồng thời đội bê tráp nữ sẽ trao lại phong bao lì xì đã được chuẩn bị trước cho đội tráp nam. Sau đó, hai đội để mâm tráp lên bàn đã được nhà gái chuẩn bị trước. Và cuối cùng chú rể hoặc ba mẹ cô dâu sẽ xuống đón cô dâu để làm lễ. Và sau cùng đại diện hai bên gia đình sẽ có đôi lời phát biểu trước 2 họ để minh chứng cho lễ đám hỏi của cặp đôi. Và nhà gái sẽ đặt một phần lễ vật nào đó lên bàn thờ tổ tiên, tiếp đó là nghi thức thắp nhang tổ tiên. Sau trước hoàn tất thì cô dâu sẽ đi rót ấm trà mời khách ăn bánh ngọt. Phong tục tập quán đám hỏi của người miền Trung. 3. Nghi thức lại quả Khi lễ ăn hỏi kết thúc thì nhà gái sẽ chia lại một phần cho nhà trai đó gọi là lễ lại quả. Lưu ý là khi chia lễ vật sẽ dùng tay chứ không được dùng dao. Trên đây là một số nghi thức trong đám hỏi của người miền Trung hi vọng bạn có thể tham khảo và tìm hiểu để có thể hiểu biết thêm về phong tục 3 miền nhé. Chúc các bạn luôn hạnh phúc!
Tháng tư đong đậu nấu chè Ăn Tết Đoan ngọ trở về tháng năm” ca dao. [ Dù không rộn ràng, náo nhiệt như ngày Tết cổ truyền nhưng Tết Đoan ngọ vẫn được lưu truyền và có một vị trí nhất định trong lòng người dân đất Việt. Bánh ú nước tro luôn hút hàng vào mùng 5 Năm nay Tết Đoan ngọ rơi vào ngày 20/6 dương lịch. Có thể nói, đây là một trong những ngày Tết quan trọng trong tín ngưỡng dân gian. Không ai biết chính xác Tết Đoan ngọ có từ khi nào, chỉ nhớ thời xưa, khi nông dân ăn mừng vì trúng mùa thì rất nhiều sâu bọ kéo đến phá hoại. Giữa lúc bà con không biết làm gì thì có một ông lão xuất hiện. Theo lời ông, mỗi nhà hãy lập bàn cúng bánh ú tro, trái cây và vận động thể lực. Không ngờ sâu bọ hết thật! Trước khi đi, ông lão còn dặn, mỗi năm cứ đến ngày này phải làm như vậy- đó là ngày mùng 5 tháng 5 âl. Cũng có nhiều gia đình giữ phong tục của gia đình, cứ đến mùng 5-5, bà sẽ bắt những con côn trùng kiến, sâu, gián… quanh nhà đem lên chảo nóng chiên. Kèm theo đó là những lời khấn tốt đẹp sẽ đến với gia đình, xóm làng. Bởi vậy, Tết Đoan ngọ còn được gọi với cái tên là ngày diệt sâu bọ. Năm nào cũng vậy, cách mùng 5-5 một tuần, các khu chợ lại nhộn nhịp hẳn lên, nhất là khu vực bán hoa, trái cây. Sẽ thật là thiếu sót khi nhắc đến Tết Đoan ngọ, mà không nói về bánh ú lá tre – loại bánh luôn hiện diện trên các mâm cúng ông bà. Không chỉ là dịp để mọi người nhớ đến tích xưa, mà còn dịp để nhiều gia đình tăng thêm thu nhập từ nghề gói bán ú nước tro. Kế thừa nghề gói bánh ú từ bà mình, chị Bé Hai TP. Long Xuyên đã gắn bó với nó từ thời con gái. Ngày thường, chị vẫn gói bánh ú tro bánh ú lá tre để bán. Tuy nhiên, số lượng bán tăng hơn nhiều khi Tết nửa năm đến. Hơn một tuần nay, mọi người đến đặt hàng rất đông. Có người đặt mua đến 700 cái bánh. Tất nhiên, giá bán vẫn không thay đổi dù là ngày Tết. Ngoài việc để cúng, loại bánh này có vị thanh mát. Nguyên liệu bánh chỉ là đậu xanh và nếp ngâm nước tro nên hợp khẩu vị nhiều người. Ở thành thị đôi khi vì công việc nên Tết Đoan ngọ trông không rơm rả như ở vùng quê. Về những vùng nông thôn, người dân ăn mừng Tết Đoan ngọ rôm rả hơn nhiều. Tôi nhớ khi còn bé, cứ đến mùng 5 tháng 5 thì anh em chúng tôi được ba mẹ mua cho quần áo đẹp đi viếng ông bà. Mẹ đi chợ mua thật nhiều đồ về cúng như Tết Nguyên đán vậy. Thường, mâm cơm cúng mùng 5 được mọi người dọn lên vào giờ trưa. Sau khi người có vai vế lớn nhất cúng lạy mới tới con cháu. Sau nghi thức cúng, mọi người sẽ cùng ngồi lại thưởng thức bữa cơm gia đình ấm áp, yêu thương. Qua thăng trầm cuộc sống, Tết Đoan ngọ ngày nay có đôi chút khác xưa. Song, niềm mong ước, những ý nghĩa tốt đẹp mà nó mang lại vẫn là những giá trị không gì thay thế được. [ Lễ hội Óc om bóc hay đua ghe ngo truyền thống của người Khmer là một trong những lễ hội lớn mang tính nhân văn sâu sắc, thể hiện sự gắn bó cộng đồng của người Khmer Nam bộ và tinh thần đoàn kết, thủy chung của 03 dân tộc anh em Kinh – Khmer – Hoa khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Lễ hội đua ghe ngo Nam Bộ Trong lễ hội Óc om bóc, có nhiều lễ lễ cúng trăng, lễ thả đèn nước, lễ thả đèn gió… và sinh động nhất là hội đua ghe ngo. Năm 2013, hội đua ghe ngo được nâng lên thành Festival Đua ghe ngo, mang tầm khu vực và quốc gia. Chiếc ghe ngo mang nhiều ý nghĩa, giá trị văn hóa đặc trưng riêng biệt của người Khmer. Ghe ngo không phải là sản phẩm của một cá nhân hay một tập thể bất kỳ nào. Mỗi chiếc ghe ngo là do một ngôi chùa, đại diện cho một hay nhiều phum sóc người Khmer, tạo ra và tham gia tranh tài. Do đó, sự thắng bại giữa các ghe ngo thực chất là sự thắng bại giữa các chùa, sự thắng bại giữa những phum, sóc người Khmer với nhau. Những mái chèo luôn theo nhịp còi Sự thành bại của ghe ngo trong hội đua còn là niềm vinh dự, là tiếng thơm của ngôi chùa, của một địa phương tham gia thi đấu. Vì vậy, nhằm để tạo nên sự thành công của ghe đua, người Khmer Nam Bộ đã vận dụng nhiều phương thức, kỹ thuật khác nhau trong việc tạo ra ghe ngo cũng như trong tham gia thi đấu. Yếu tố tâm linh cũng là một trong những yếu tố giúp thành công cho ghe ngo Ghe ngo nguyên thủy là một chiếc thuyền độc mộc, khoét ruột từ một thân cây, nhưng này nay, việc tìm cây sao vừa to, vừa dài rất khó khăn, nên người Khmer đã dùng những mảnh ván với nhau để thay thế. Ghe ngo được làm gần giống hình con rắn dài khoảng từ 25 đến 30m. Ở giữa chỗ rộng nhất là 1,1m. Đầu được uốn cong lên, như hình đầu rắn. Ở đuôi ghê hay gọi là sau lái cũng được uốn cong lên nhưng cao hơn phía đầu một chút. Người ta đóng từ 24 đến 27 cây thanh ngang trên chiếc ghe, để vừa cho hai người ngồi. Mỗi ghe phải đảm bảo từ 40 đến 60 người ngồi bơi và chỉ huy, như ghe ngo chùa Bốn Mặt Sóc Trăng có 53 người, ghe ngo chùa Ông Mek Trà Vinh 57 người. Người ta tiến hàng nghi lễ cúng thần linh trước khi đua Dù cho ghe có bao nhiêu vận động viên, nhưng luôn luôn có ba người điều khiển, một người ngồi mũi chuyên về chỉ đạo tâm linh của ghe đua, tổ chức lễ cúng xuống ghe, chỉ đạo toàn ghe, điều khiển kỹ thuật bơi của ghe đua; Một người ngồi giữa và một người ngồi đuôi giữ nhiệm vụ thổi còi để thúc giục và điều chỉnh kỹ thuật bơi của các vận động viên. Mỗi chiếc ghe có một biểu tượng riêng, đây là dấu hiệu để ghi nhớ mà còn thể hiện sức mạnh của ghe đua, thường được chọn cho quan niệm truyền thống của từng chùa, như các con vật có sức mạnh, hoặc có khả năng chạy nhanh… Người dân xem đua ghe ngo Biểu tượng ghe ngo chùa Bốn Mặt Sóc Trăng là con chim, Chùa Champa Sóc Trăng chọn biểu tượng con cọp, chùa Ông Mek Trà Vinh biểu tượng con cá nược…Người Khmer tin rằng, trong quá trình thi đấu, ghe ngo sẽ có khả năng lao đi với tốc độ nhanh và mạnh như con vật được chọn làm biểu tượng. Hai bên thân ghe, mũi ghe và đuôi ghe được trang trí hoa văn, màu sắc phù hợp với biểu tượng của ghe để tạo nên sức mạnh. Nếu biểu tượng của ghe là rắn thần Naga, thì các họa tiết hai bên sườn ghe cũng toát lên được hình ảnh của một con rắn, khi ghe lướt sóng, người xem sẽ có cảm giác như xem hình ảnh một con rắn thần đang lượn sóng. Để tạo nên sức mạnh giúp ghe di chuyển nhanh trong khi thi đấu, người Khmer đã dùng một cây hoặc hai cây dài cột chặt vào giữa ghe. Người Khmer gọi là cây cần câu, một số nơi gọi là cây kềm. Cây này có tác dụng như đòn bẩy, đẩy ghe lướt nhanh về phía trước. Đó là cây gỗ tốt, rất cứng, thường là cây sao có đường kính khoảng 0,2m. Người ta phân biệt các đội chơi bằng màu áo như các môn thể thao khác Đầu mỗi chiếc ghe đều vẽ hai mắt nổi, để ghe thấy đường đi và tránh nguy hiểm. Quan niệm này gần giống với tục vẽ mắt cho thuyền đã có từ lâu đời ở Nam Bộ. Ghe ngo chỉ được sử dụng vào việc thi đấu, mội hoạt động liên quan đến ghe đều phải cử hành lễ cầu xin, như lễ khởi công làm ghe ngo, lễ khánh thành ghe ngo, lễ mặc áo cho ghe ngo Ghe Ngo cùng với dàn nhạc ngũ âm trở thành 2 tài sản văn hóa, sinh hoạt cộng đồng, tôn giáo độc đáo và quý giá của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ. [ Chiếc cầu tre miệt vườn vẫn mãi in sâu trong ký ức người dân miền Tây Nam bộ như một nét văn hóa miệt vườn vùng sông nước. Chiếc cầu tre hay “cầu khỉ” bắc qua sông rạch kênh mương chằng chịt, là nét đẹp hết sức độc đáo về cảnh quan và sinh hoạt của người dân đồng bằng sông Cửu Long. Chiếc cầu khỉ là hình ảnh quen thuộc của bao thế hệ người dân miền tây Trước kia, sông rạch là huyết mạch kinh tế của người dân nông thôn, ngày ấy, vùng quê còn nghèo, cây cầu tre đã chung tình với mảnh đất quê hương, quen thuộc với người dân nông thôn, khi chân bước lên cầu tre từ người lớn đến trẻ em dường như đã quen với “nhịp lắc” và cái gập ghềnh mỗi khi đến trường hay đi học về. “Ví dầu cầu ván đóng đinh Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi Khó đi mẹ dắt con đi Con đi trường học, mẹ đi trường đời”. Có lẽ cái sợi đây gắn kết ấy đã có từ khi đứa trẻ ra đời, hình ảnh cây cầu tre đã theo lời ru của mẹ mà lớn lên theo năm tháng. Rồi dù ta có trưởng thành, đi xa hình ảnh cây cầu tre thuở bé vẫn theo chân mỗi người như hành trang quý báo, kết chặt nghĩa tình, gợi lên sự dịu dàng yêu thương. [adsres] Khi nhắc đến làng quê miền Tây Nam bộ, người ta nghĩ ngay đến vùng sông nước mênh mông trù phú, cùng với các chiếc cầu tre, chiếc xuồng ba lá chiếm một vị trí văn hóa quan trọng trong đời sống. Nếu hình ảnh cây cầu tre quen thuộc với người dân miệt vườn thì nó lại là nỗi sợ của người dân chốn thị thành, những bước chân run run khi bước nhẹ lên “chiếc lưng trần” của cây cầu giống đôi chân của một cụ già. Mùa mưa, nước dâng ngập con mương, con rạch, cây cầu bị nước ngập lâu ngày, trở nên trơn trợt bởi bám rong, bùn. Lũ học trò mỗi lần đi học, một tay vịn thành cầu, tay kia cứ khư khư cặp chiếc cặp nhỏ bên hông, sợ chẳng may trượt chân rơi xuống nước làm ướt trang vở học trò. Những em học sinh đến trường Cầu tre miền quê là vậy, lúc nào cũng đơn sơ và giản dị. Với vài cây tre, năm ba cây gáo, cây bần, cây cau, cây dừa, cây sao, cây sến và thêm một mớ dây cổ rùa, dây mây rừng, dây choại là cây cầu đã có mặt bên dòng đời nơi thôn dã miền sông nước quê mùa. Không cầu kỳ, cũng chẳng cao sang, cây cầu đã “hòa mình” vào cuộc sống ở kênh rạch, nối liền hai bờ cho mọi người qua lại giao hòa cùng nhau, mỗi ngày như mọi ngày mang đến niềm vui hạnh ngộ đôi bờ cho con rạch làng quê.. Cây cầu lắt lẻo đã tô thêm nét đẹp cho làng quê khi những con đường bị dòng sông, kênh rạch ngăn đôi. Dòng nước cạn, con rạch nhỏ, thân cầu tre gọn gàng nối bên này bên kia bằng khúc gỗ gòn gọn gàng. Dòng nước sâu, con sông rộng, cầu tre cũng nối dài thêm nhiều nhịp thành cây cầu lắt lẻo trên dòng nước bao mùa… Những cầu tre dài có từ ba nhịp, năm nhịp, bảy nhịp là những cây cầu qua những con rạch có bờ bến xa vời. Cây cầu tre luôn có những nhịp lẻ vì người đời muốn dành nhịp giữa ngay giữa dòng nước sâu cho ghe xuồng chở nặng tiện đường qua lại, nên cầu tre chia dòng sông làm hai phần đều nhau. Ở trong kinh, trong rạch, nên cầu tre mang trên mình cái nét riêng của con kinh hiền hòa, của con rạch bùn lầy, của xứ sở quê mùa… Không có bùn trên lưng, không có nắng trên tay vịn, không có mưa trên đầu, không có nước làm đung đưa chân cầu như chân cụ già, có lẽ, đã không còn là cây cầu tre lắt lẻo miền quê. Từng đoạn của cây cầu tre như những mảnh ghép của năm tháng đã qua, để lại màu nâu xỉn in hằn những dấu chân đi về. Cầu tre duyên dáng tình quê Những cây cầu đúc bằng xi măng dần dần xuất hiện rải rác hết khúc sông này đến đầu sông nọ, cây cầu tre cũng mất dần trên những con rạch, những dòng kinh đào khắp miền đồng bằng này… Giờ đây, không còn dễ dàng để có thể bắt gặp hình ảnh đứa trẻ bắt đầu tự đi qua cầu bằng cách ngồi lên cầu và nhích từng chút một trước khi có thể bước đi thành thạo trên cây cầu tre quê hương. Nhớ quá những cây cầu tre gập ghềnh ngày nào qua câu ca dao mộc mạc, quê mùa như khúc hát ân tình, nhớ đêm trăng sáng vằng vặc nơi miền quê, những thanh niên nông thôn ngồi vắt vẻo trên cầu đong đưa thả chân xuống nước, đá những trảng lục bình hờ hững trôi ngang, gió hiu hiu thổi thấy quê hương yên bình quá đỗi. Giờ đây, quê tôi đang từng ngày thay đổi với nhiều chiếc cầu mới khang trang mọc lên thay thế cho những chiếc cầu khỉ nối nhịp đôi bờ. Nhưng về sâu trong từng ngõ ngách thôn xóm, ta vẫn bắt gặp đâu đó vài chiếc cầu tre vẫn đang vươn mình nối nhịp cho bà con đi lại. Có thể nói, cầu tre như là một biểu tượng cho vùng đất và con người miền Tây mộc mạc nhưng ấm áp, nghĩa tình.
Ở Việt Nam thì đi từ Bắc vào Nam trải dài trên địa hình chữ S, dừng chận tại nơi đâu ta cũng đều cảm nhận được hương vị đặc trưng của văn hóa từng vùng miền. Đến với đất nước này, người đến kẻ đi nhiều vô kể, nhưng trong lòng luôn vương vấn 1 lần tham gia vào lễ hội đặc sắc của vùng miền. Lễ Hội Việt Nam là một sự kiện văn hóa tổ chức mang tính cộng đồng, được chia làm 2 phần đó là phần "Lễ" và phần "Hội". Phần "Lễ" là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. Về phần "Hội" thì có nghĩa là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống. Miền Bắc là nơi trọng điểm của Việt Nam, là nơi tập trung nét tinh hoa văn hóa cổ xưa nhất của đất nước lúc bấy giờ nên nơi đây tập trung rất nhiều Lễ Hội đặc sắc mang đậm văn hóa vùng miền. Bên cạnh đó thì miền Trung và miền Nam là 2 vùng mang nét hiện đại hơn nhưng vẫn không kém phần cổ kính. Nói đến Miền Trung thì nơi đây có 4 Lễ hội lớn được tổ chức hằng năm, tuy không nhiều bằng Miền Bắc nhưng phần đặc sắc vẫn không thua kém. XEM THÊM ►Tour Du Lịch Đà Nẵng giá rẻ ►Tour Du Lịch Đà Nẵng - Huế 1 ngày ►Lễ Hội Mùa Đông ở Bà Nà Hills Bạn biết gì về những Lễ Hội ở Miền Trung? 1. Lễ Hội Cầu Ngư Nhắc đến Miền Trung thì không thể không nhắc đến Lễ Hội Cầu Ngư của những người dân làng chài. Vào tháng Giêng hằng năm, người dân làng chài sẽ từng bừng tổ chức Lễ Hội Cầu Ngư với mong muốn là cầu cho một vùng trời yên biển lặng, tôm cá vào đầy khoang. Lễ Hội Cầu Ngư diễn ra là để thờ cúng "Cá Ông" - tức là cá voi. Sở dĩ người dân làng chài ở miền Trung có tục Thờ cúng "Cá Ông" vì đây là một loài cá thần, người xưa kể rằng loài cá này đã giúp ngư dân vượt qua bao hoạn nạn khi đang lênh đênh trên biển cả. Sau khi ăn tết xong, người dân làng chài sẽ lập đền làm Lễ tế Cá Ông, thường thì người ta sẽ lồng ghép dưới hình thức Lễ Hội Cầu Ngư và ra quân đánh bắt vụ cá Nam. Lễ Hội Cầu Ngư Lễ Hội Cầu Ngư thường được diễn ra trong 2 ngày. Vào ngày lễ chính, làng sẽ chọn ra một ban nghi lễ gồm các cụ cao niên, hiền đức, có uy tín với bạn chài và không bị mắc tang chế. Vị chánh bái dâng đồ tế lễ và đọc văn tế nói lên lòng biết ơn của dân làng đối với công đức Cá Ông và cầu mong mùa đánh bắt bội thu, thuyền bè đi khơi về lộng an toàn. Trong Lễ Hội còn có hình thức múa hát "Bả Trạo" bả nắm; trạo chèo đò, hình thức múa hát này nhằm diễn tả tinh thần đoàn kết giữa các thành viên trên 1 con thuyền, cùng nhau vượt qua sóng lớn gió to, cùng nhau mang về thật nhiều tôm cá. Hát múa "Bả Trạo" không những là một nghi thức tế lễ mà đây còn là một hoạt động nghệ thuật hết sức đặc sắc. Lễ Hội Cầu Ngư Bên cạnh phần nghi lễ chính còn có phần hội, mỗi địa phương ở các tỉnh miền Trung đều có những cách tổ chức Lễ nghi khác nhau nhưng chung lại đều có những trò chơi dân gian đặc trưng vùng biển như lắc thúng, kéo co, đua thuyền, bơi lội, thi đan lưới,...ngoài các trò chơi dân gian đặc sắc thì phần "hội" không thể thiếu các chương trình biểu diễn nghệ thuật như hát tuồng, hát hò khoang, hát bội và hát bài chòi,...Lễ Hội Cầu Ngư không những là một phong tục tập quán mà đây còn được xem như nét tinh hoa văn hóa đặc sắc của các ngư dân làng chài Việt Nam. Lễ Hội Cầu Ngư >>>Xem thêmTour Du Lịch Huế giá rẻ>>Xem thêm Du lịch trọn gói hay du lịch tự túc>>Xem thêm Bảo tàng nghệ thuật điêu khắc Chăm Đà Nẵng<<< Nét tinh hoa văn hóa của đất nước Việt Nam sao mà tinh tế, cổ kính đến thế. Hãy cùng Art Travel đồng hành trong chuyến hành trình tìm về nơi Giao Thoa của nền văn hóa đất trời này nhé! Lễ Hội Miền Trung - Nơi Giao Thoa Văn Hóa Đất Trời Biên tập Ngọc Quỳnh Art-er, Nguồn Internet
Khi Äáºt chân Äến tá»ng vùng khác nhau trên dải Äất hình chữ S, chắc chắn các bạn sẽ nháºn ÄÆ°á»£c những nét văn hóa Äáºc trưng khác nhau tá» con ngưá»i, phong tục, văn hóa…Và trong bà i viết hôm nay, hãy cùng mình ghé thăm mảnh Äất miá»n Trung Äể cùng tìm hiểu vá» má»i thứ nÆ¡i Äây nhé. Äến vá»›i miá»n Trung; má»i ngưá»i không chỉ có ÄÆ°á»£c ngắm nhìn khung cảnh biển thÆ¡ má»™ng, hòa mình và o không khà mát mẻ, bên những bãi biển nổi tiếng như Nha Trang, Äà Nẵng; mà còn có thể tìm hiểu kÄ© hÆ¡n vá» những nét văn hóa và cuá»™c sá»ng sinh hoạt cá»§a ngưá»i dân miá»n Trung. Khúc ruá»™t miá»n Trung – Mảnh Äất khan hiếm sản váºt vì thiên tai, bão lÅ© triá»n miên và không ÄÆ°á»£c thiên nhiên ưu ái như các vùng miá»n khác. Nhưng vì váºy; nhá» sá»± trân quý tá»ng món sản váºt ấy cá»§a ngưá»i dân nÆ¡i Äây; mà mảnh Äất nà y Äã có những món ẩm thá»±c Äáºc trưng không nÆ¡i nà o có ÄÆ°á»£c. Khi nhắc Äến miá»n Trung; khách ở mợi miá»n tổ quá»c sẽ không khá»i ngỡ ngà ng vá» má»™t ná»n ẩm thá»±c phong phú. Ẩm thá»±c miá»n Trung có rất nhiá»u món ăn ngon cả vá» hương vị láºn cách nấu. Nét văn hóa Äáºc trưng cá»§a miá»n trung Văn hóa ẩm thá»±c Du lịch tá»›i nhiá»u nÆ¡i; nhưng phải Äến khi thưởng thức ẩm thá»±c cá»§a má»—i vùng; má»i ngưá»i má»›i thấy rõ sá»± khác biệt Äầy tinh tế, tạo nên bản sắc riêng cho ná»n ẩm thá»±c Việt. Má»i món ăn Việt Nam luôn ÄÆ°á»£c Äánh giá là vô cùng phong phú, tá» Bắc và o Nam, má»—i má»™t miá»n Äất Äá»u Äể lại những Äáºc sản riêng. Ẩm thá»±c chÃnh là má»™t phần quan trá»ng giúp mang lại sá»± khác biệt và Äáºc trưng cho văn hóa miá»n Trung nói riêng và văn hóa cá»§a cả nước Việt Nam nói chung. Ẩm thá»±c miá»n Trung khá cầu kỳ; chú trá»ng Äến cách trình bà y cho Äến tên gá»i món ăn. Và dụ như là Huế – nÆ¡i ÄÆ°á»£c và như cái nôi cá»§a ẩm thá»±c miá»n Trung. Văn hóa ẩm thá»±c ở Huế ÄÆ°á»£c phân ra là m hai loại là ẩm thá»±c Cung Äình và ẩm thá»±c Dân gian. Cao lương mỹ vị hay món ăn dân dã; thì Äá»u là m ấn tượng cho má»i khách phương xa; ngay tá» lần Äầu thưởng thức . Những món ăn Äáºc sản cá»§a miá»n Trung ÄÆ°á»£c khách phương xa ưa chuá»™ng; như mì quảng, cao lầu, bánh bèo, bún bò Huế, bánh bá»™t lá»c, chả ram Phong tục táºp quán Cùng vá»›i ná»n ẩm thá»±c phong phú cùng những món ăn hấp dáºn du khách ngay tá» lần Äầu thá»; thì phong tục táºp quán cÅ©ng là má»™t phần góp phần tạo nên sá»± Äáºc sắc cho văn hóa miá»n Trung. Giá»ng như khu vá»±c Bắc Bá»™ hay Nam Bá»™, những phong tục ở miá»n Trung ÄÆ°á»£c thấy rõ nét qua dịp Tết Nguyên Äán. Khu vá»±c miá»n Trung; bà n thá» tổ tiên hay ở mâm cá»— Äầu năm, bánh tét sẽ là linh hồn quê hương, là nhịp cầu gắn kết con cháu vá»›i tổ tiên và cÅ©ng là sợi dây liên kết thêm bá»n cháºt. Nói vá» mâm ngÅ© quả thì ngưá»i dân xứ nà y; không quá chú tâm và o hình thức; chá»§ yếu dá»±a và o sá»± thà nh tâm dâng tổ tiên. Kèm Äấy; miá»n Trung cÅ©ng có lệ “xông Äất†và o sáng Äầu năm. Các gia Äình sẽ thưá»ng nhá» ngưá»i cao tuổi còn mạnh khá»e, có vai vế và uy tÃn trong xã há»™i hoáºc những Äứa trẻ thông minh, hoạt bát tá»›i “xông Äất†Äầu năm. Và o sáng mùng má»™t, gia Äình sẽ thức dáºy bởi niá»m vui má»ng năm má»›i. Má»i ngưá»i thưá»ng Äến chúc Tết ngưá»i thân,há» hà ng, hà ng xóm. Lá»… há»™i Nước ta là má»™t Äất nước có ná»n văn hóa Äáºc trưng, phong phú mang những hương vị riêng cá»§a tá»ng vùng miá»n tá» Bắc, Trung, Nam. Nếu ở phÃa Bắc thu hút má»i quan khách tham gia vá»›i lá»… há»™i chùa Hương Äầu năm; thì miá»n Trung thu hút ấn tượng sâu sắc lá»›n vá»›i má»i ngưá»i thông qua lá»… há»™i Cầu Ngư. Äây là má»™t lá»… há»™i Äã tạo bản sắc riêng biệt cho văn hóa miá»n Trung; vá»›i những lá»… nghi Äáºc sắc, phong phú mà không có Äịa Äiểm nà o trên Äất nước Việt Nam có ÄÆ°á»£c. Lá»… há»™i Cầu Ngư là má»™t phong tục táºp quán ÄÆ°á»£c xem như; nét tinh hoa văn hóa Äáºc sắc cá»§a các ngư dân vùng biển Việt Nam. Cùng Äấy, nhiá»u lá»… há»™i nổi báºt khác ở miá»n Trung không thể không kể Äến như lá»… há»™i Lam Kinh, lá»… há»™i Dinh Thầy ThÃm. Văn hóa miá»n Trung vá»›i những nét văn hóa Äáºc sắc và khác biệt; giúp góp phần Äem lại má»™t bức tranh muôn mà u cho ná»n văn hóa Việt Nam. Nguồn
Đến với Miền Nam du khách không những được chiêm ngưỡng những cảnh đẹp độc đáo mà còn được khám phá nét văn hóa rất riêng của người dân nơi đây. Nam Bộ là vùng đất với rất nhiều món ăn ngon rất đặc trưng mang hơi thở của người dân Nam Bộ. Ngoài ra các phong tục tập quán, tín ngưỡng ở đây cũng mang nét đặc sắc rất riêng. Văn hóa ẩm thực, phong tục của người miền Nam không lẫn lộn với vùng miền khác. Nếu bạn có dịp trải nghiệm du lịch ở các tỉnh miền Nam thì nhớ đi vào mùa các lễ hội. Bởi vì lễ hội ở đây rất đặc sắc và phong phú, như lễ hội đua bò, lễ hội Nghinh Ông…. Hãy theo dõi bài viết dưới đây để cùng khám phá nét văn hóa Miền Nam rất riêng này nhé. Nét đặc trung của Văn hóa miền NamPhong tục tập quán của người Miền NamẨm thực miền Nam giản dị, dân dãNhững lễ hội đặc sắc của văn hóa Miền NamLễ Hội Tống Ôn có từ lâu đờiLễ hội đua bò Bảy Núi của đồng bào dân tộc người KhmerLễ Hội Nghinh Ông là lễ hội có truyền thống đâu đời Nét đặc trung của Văn hóa miền Nam Đến với miền Nam, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng khung cảnh thiên nhiên xinh đẹp; và thả mình vào bãi biển xanh mát của hòn đảo Phú Quốc, Quy Nhơn hay Bình Thuận. Mà còn có cơ hội tìm hiểu về văn hóa và cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của những người dân địa phương. Hơn thế nữa, Nam Bộ còn là vùng đất của những món ăn ngon, hấp dẫn. Những câu hát dân gian độc đáo và những làng nghề truyền thống đặc sắc. Trong bài viết bên dưới đây mình sẽ giới thiệu sơ lược tới các bạn Văn hóa miền Nam là gì ? Cũng như tìm hiểu sơ lược về các phong tục tập quán miền Nam. Có thể nhận thấy rằng, phong tục tập quán là một trong những yếu tố; không thể không đề cập đến khi nói về nét đặc sắc của văn hóa miền Nam. Cũng giống như miền Bắc, những phong tục, lễ nghi đều được thể hiện rõ nét qua ngày Tết truyền thống của người nước ta đấy chính là Tết Nguyên Đán. Những thủ tục và lễ vật bày biện tren bàn thờ của người miền Nam cũng khác hẳn người miền Trung và miền Bắc. Người miền Nam thường chưng trái cây theo ngũ quả cầu, dừa, đủ, xoài, sung. Chợ nổi nét văn hóa rất đặc trưng của người Miền Tây Đối với người miền Nam,mâm ngũ quả không bao giờ thiếu được cặp dưa hấu và bốn loại quả. Đó là mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài. Bởi vì cầu – dừa – đủ – xoài theo tiếng người miền Nam đọc gần giống “cầu vừa đủ xài”. Ba ngày tết của người miền Nam là ba ngày vui chơi, ăn uống, thăm viếng; và chúc mừng nhau những điều mới lạ, tốt lành. Một tập quán phổ biến là trong những ngày đầu năm. Mọi người đều chỉ đưa ra những lời hay, ý đẹp, gặp nhau chào mừng, hy vọng mọi điều như ý. Ẩm thực miền Nam giản dị, dân dã Dọc theo quốc gia hình chữ S là 3 vùng miền với những vẻ đẹp không giống nhau. Mỗi vùng lại mang một màu sắc riêng; mới mẻ và không bao giờ nhầm lẫn với nhau được. Đặt chân đến từng vùng đất như chỉ khi thưởng thức qua ẩm thực của mỗi vùng. Du khách mới cảm nhận được sự khác biệt đầy tinh tế. Góp một phần tạo nên bản sắc rất riêng cho nền ẩm thực đất nước ta. Nếu đã ăn thử những món ăn của người miền Nam nhất định sẽ không quên được hương vị của nó. Ẩm thực miền Nam luôn được cho là mang nét giản dị, dân dã mà không kém phần thu hút. Món ngon miền Nam thường được nêm đường hoặc mang vị ngọt. Đó là vị của các loại rau, củ, quả và vị béo do dùng nước dừa. Chỉ cần những nguyên liệu đơn sơ, bình dị nhưng qua bàn tay chế biến đầy khéo léo; tinh tế của những người đầu bếp đã tạo nên một phong thái rất riêng cho các món ăn của vùng đất này. Những món ăn góp phần tô điểm thêm nét đẹp cho văn hóa miền Nam. Có thể kể đến như canh chua cá bông lau, cá kho tộ, thịt kho nước dừa, lẩu mắm, bánh canh cá lóc, bánh xèo, cơm tấm Ẩm thực đa dạng mang đậm chất người dân miền sông nước Những lễ hội đặc sắc của văn hóa Miền Nam Lễ Hội Tống Ôn có từ lâu đời Lễ Tống Ôn là một tục lễ có từ rất lâu đời ở vùng đất Nam Bộ. Tuy ngày nay không còn được phổ biến như trước nữa nhưng vẫn còn nhiều địa phương như Cần Thơ, Vĩnh Long, Long An, An Giang,… tổ chức. Mặc dù những ngày lễ này không thống nhất ngày giờ với nhau. Tuy nhiên đều có điểm chung là đơn vị ở những nơi thờ tự như chùa, miễu,…… Tục lễ này có vào thời còn khai hoang lập địa cần có nhiều dịch bệnh gây hại cho con người. Vì vậy người dân nam bộ khi ấy cứ nghĩ do ma quỷ những người khuất mặt khuất mày gây ra. Do đó họ làm lễ Tống Ôn có nghĩa tống tiễn, xua đi những tà khí, dịch bệnh gây hại cho con người. Để chuẩn bị làm lễ Tống Ôn họ chuẩn bị các đồ vật cúng thần trước và một chiếc thuyền. Họ để các đồ vật vừa cúng thần xong rồi thắp nhang khấn vái đem ra sông thả thuyền trôi theo dòng nước. Với ước muốn đem đi những điều xui xẻo, bệnh tật; được tai qua nạn khỏi, hướng tới một cuộc sống an lành và hạnh phúc. Lễ hội đua bò Bảy Núi của đồng bào dân tộc người Khmer Lễ hội đua bò Bảy Núi là một lễ hội của đồng bào dân tộc người Khmer. Nó mang đậm nét bản sắc văn hóa dân gian và là một môn thể thao độc đáo ở vùng Bảy Núi. Lễ đua bò được tổ chức vào dịp lễ Dolta của người Khmer. Vào ngày 30/8 âm lịch hằng năm ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang người dân nô nức chuẩn bị cho lễ hội này. Người ta sẽ lựa chọn một cặp bò nhanh nhẹn nhất, khỏe mạnh nhất. Và chăm sóc cho chúng được nghỉ ngơi tập luyện, ăn uống theo chế độ. Sau 2 tháng cặp bò này có thể ra trận đua và có cả người điều khiển nữa. Sau khi đôi bò nào được giành giải cao nhất của năm thì chúng được coi như một tài sản quý báu của gia đình. Không những thế, cả làng cũng sẽ chung tay chăm sóc đôi bò dành chiến thắng này. Lễ hội đua bò Bảy Núi Vì chúng sẽ mang lại may mắn trong việc gieo trồng; và mang lại cho người dân nơi đây một mùa bội thu, nhà nhà no ấm. Hằng năm vào dịp lễ hội đua bò náo nhiệt và thu hút ở nơi này thu hút hàng ngàn khách du lịch ghé thăm. Du khách các tỉnh lận cận đã có mặt từ rất sớm; từ lúc bắt đầu cho kết thúc cuộc đua lúc nào cũng tưng bừng. Reo hò, vỗ tay. Khích lệ rất nhiệt tình góp một phần cho trận đấu trở nên náo nhiệt và vui hơn trong dịp lễ này. Lễ Hội Nghinh Ông là lễ hội có truyền thống đâu đời Lễ hội Nghinh Ông hay lễ hội Nghinh Ông Thủy Tướng; là lễ hội có truyền thống đâu đời của ngư dân miền duyên hải, và của những người đi biển. Đây chính là một lễ hội tưởng nhớ công ơn của loài cá voi – vị thần Đại tướng quân Nam Hải. Vị thần đã nhiều lần cứu giúp người dân vượt qua sóng to gió lớn ở ngoài biển khơi. Hằng năm lễ hội được tổ chức trong vòng ba ngày. Nhưng lại không thống nhất về thời gian giữa các địa phương. VD ở Bình Đại, Bến Tre lễ hội được cử hành vào ngày 16/6 âm lịch, còn ở Thắng Tam thì 16/8 âm lịch. Đi dọc theo miền duyên hải Nam Bộ du khách sẽ bắt gặp nhiều ngôi đền, miếu thờ cá ông. Đặc biệt nhất là ở đình thờ cá Ông ở xã Cần Thạnh có bộ xương cá Ông dài đến 12m. Ở Vũng Tàu có bộ xương dài tới 25m. Trước ngày lễ hội đã có hàng trăm chiếc tàu đánh cá lớn nhỏ của ngư dân đã được trang trí cờ hoa neo. Tàu đã đậu sẵn để thực thi nghi thức rước Ông ra biển. Các lễ cúng của ngư dân rất trang trọng và được chuẩn bị kỹ lưỡng. Bên cạnh đó các ngư dân còn mời thỉnh lẫn nhau. Kể cả khách từ nơi xa đến đây thăm quan cùng nhau ăn uống, vui chơi, nói chuyện thân tình với nhau.
phong tục tập quán miền trung